Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ láy cho học sinh Lớp 3 khi làm bài văn viết

doc 15 trang sangkienlop3 23/03/2024 1070
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ láy cho học sinh Lớp 3 khi làm bài văn viết", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ láy cho học sinh Lớp 3 khi làm bài văn viết

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy từ láy cho học sinh Lớp 3 khi làm bài văn viết
 Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
 I. PHẦN MỞ ĐẦU
 I. 1) Lý do chọn đề tài :
 Vai trò của từ trong hệ thống ngôn ngữ quy định tầm quan trọng của việc 
dạy từ ngữ ở tiểu học. Không có một vốn từ đầy đủ thì không thể nắm ngôn ngữ 
như một phương tiện giao tiếp. Việc học từ ở tiểu học sẽ tạo cho học sinh năng 
lực từ ngữ, giúp học sinh nắm tiếng mẹ đẻ, tạo điều kiện để học tập những cấp 
học tiếp theo và phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu 
thì khả năng lựa chọn từ càng lớn, càng chính xác, sự trình bày tư tưởng, tình 
cảm càng rõ ràng, sâu sắc bấy nhiêu. Vì vậy số lượng từ, tính đa dạng, tính năng 
động của từ được xem là điều kiện quan trọng hàng đầu để phát triển ngôn ngữ. 
Cũng chính vì vậy, ở tiểu học, từ ngữ không chỉ được dạy trong tất cả các phân 
môn tiếng Việt mà nó còn được dạy trong tất cả các tiết học của các môn khác 
như Toán, Tự nhiên xã hội,. Ở đâu có dạy nghĩa từ, dạy sử dụng từ, thì ở đó 
dạy từ ngữ.
 Từ những mục đích giáo dục trên, việc dạy học phân môn “Luyện từ và 
câu” trong môn Tiếng Việt đóng vai trò hết sức quan trọng trong hệ thống ngôn 
ngữ. đây là sự kết hợp của hai phân môn riêng biệt đó là Từ ngữ, Ngữ pháp 
trong chương trình tiểu học trước đây. Nó phù hợp với yêu cầu giáo dục trong 
giai đoạn mới, thể hiện được quan điểm dạy học mới là gắn liền những kiến thức 
về lý thuyết ngôn ngữ với việc đưa chúng vào hiện thực sử dụng gắn lý thuyết 
với thực hành. Nội dung chương trình của phân môn luyện từ và câu ở tiểu học 
rất phong phú và đa dạng. Phân môn này có nhiệm vụ cung cấp cho học sinh 
những kiến thức cơ bản về tiếng Việt như từ loại, loại từ, cụm từ, câu, đoạn 
văn, và cấu trúc của chúng nhằm giúp học sinh có hiểu biết về ý nghĩa tiếng 
Việt và sử dụng tiếng Việt trong trình bày văn bản nói hoặc viết.
 Dạy học từ láy ở tiểu học nói chung, ở lớp 3 nói riêng là một trong những 
nội dung quan trọng nhằm cung cấp cho học sinh có những hiểu biết cơ bản về 
các kiểu từ của tiếng Việt. Từ láy là một loại từ của từ phức, là sản phẩm của 
phương thức láy. Khi học từ láy, học sinh được tiếp thu thêm những kiến thức 
phong phú và đa dạng của tiếng Việt.
 Để giúp các em học sinh hiểu sâu về từ láy và biết sử dụng một số từ láy 
để diễn đạt trong các bài tập làm văn, tôi đã lựa chọn đề tài: “Một số biện pháp 
dạy từ láy cho học sinh lớp 3 khi làm bài văn viết” để làm nội dung nghiên 
cứu sáng kiến kinh nghiệm.
 I.2) Mục tiêu – nhiệm vụ của đề tài :
 Dạy học từ láy ở lớp 3 nghĩa là dạy học sinh hiểu thế nào là từ láy, có mấy 
kiểu từ láy, sử dụng từ khi nào, mục đích của việc dùng từ láy trong văn bản. Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
 II/ PHẦN NỘI DUNG
 II. 1) CƠ SỞ LÝ LUẬN:
 Ngôn ngữ viết trong tập làm văn tận dụng các hiểu biết về kỹ năng tiếng 
Việt do các phân môn khác rèn luyện hoặc cung cấp đồng thời góp phần hoàn 
thiện chúng. Để làm một bài văn viết, học sinh phải hoàn thiện bốn kỹ năng, nói, 
đọc, viết, phải vận dụng các kiến thức về tiếng việt. Trong quá trình vận dụng 
này, các kỹ năng và kiến thức đó được hoàn thiện và nâng cao dần. Phân môn 
tập làm văn rèn luyện các kỹ năng sản sinh văn bản (nói và viết). Nhờ vậy Tiếng 
việt không chỉ là một hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua 
từng phân môn mà trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư 
duy học tập. Nói cách khác. Phân môn tập làm văn đã góp phần hiện thực hóa 
mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học tiếng việt trong đời sống sinh 
hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học Sản phẩm của phân môn 
tập làm văn là các bài văn viết hoặc nói theo các kiểu bài do chương trình quy 
định. Để sản sinh được các bài văn này, học sinh phải có thêm nhiều kỹ năng 
khác ngoài kỹ năng lắng nghe, nói, đọc viết tiếng việt, kỹ năng dùng từ, đặt câu. 
Đó là các kỹ năng phân tích đề, tìm ý và lựa chọn ý, kỹ năng lập dàn ý, viết đoạn 
và liên kết đoạncác kỹ năng này không được phân môn vào trong môn Tiếng 
việt rèn luyện và phát triển ngoài phân môn tập làm văn, cho nên có thể nói 
nhiệm vụ cơ bản và chủ yếu trong phân môn tập làm văn là giúp học sinh sau 
một quá trình luyện tập lâu dài và có ý thức, dần dần nắm được cách viết các bài 
văn theo nhiều phong cách khác nhau do chương trình quy định.
 - Phân môn tập làm văn sử dụng toàn bộ các kỹ năng được hình thành và 
phát triển do nhiều phân môn khác của môn tiếng việt đảm nhiệm (kỹ năng viết 
chữ, kỹ năng viết chính tả, kỹ năng đọc, nghe, nói). Khi sử dụng, phân môn 
tập làm văn cũng góp phần phát triển và hoàn thiện chúng.
 - Phân môn tập làm văn còn sử dụng kiến thức và kỹ năng do nhiều môn 
học khác cung cấp (ví dụ các hiểu biết do môn tự nhiên và xã hội, do môn đạo 
đức, pháp luật, do môn hát, vẽcung cấp).
 - Phân môn tập làm văn còn huy động toàn bộ vốn sống hoặc những mạnh 
vốn sống của học sinh có liên quan đến đề bài. Tả một cây đang ra hoa kết quả, 
tả một con mèo đánh bắt chuột hoặc một con gà đang kiếm mồihọc sinh đâu 
chỉ huy động vốn tri thức qua một bài học mà còn phải huy động tất cả những 
tình cảm, ấn tượng, cảm xúc, những ký ức còn lưu giữ được về các con vật hoặc 
cây cối đó. Chỉ như vậy bài văn mới trở nên sinh động và có hồn. Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
hiện, nội dung thiên về lý thuyết mà không có sự mạch lạc và trôi chảy. Từ đó 
chất lượng của bài văn sẽ không cao và làm cho người đọc nhanh chán
 c. Mặt mạnh – Mặt yếu:
 * Mặt mạnh:
 Nếu giáo viên biết vận dụng tốt các kiểu từ láy để hướng dẫn học sinh sự 
dụng trong những bài văn viết sẽ đạt được một số mặt mạnh sau:
 - Giúp học sinh phát huy tính sáng tạo trong việc trình bày các bài tập làm 
văn viết, nhất là các bài văn kể chuyện, viết thư. 
 - Tích lũy thêm một số vồn từ làm kinh nghiệm cho việc học tập của các 
em sau này.
 - Tăng khả năng vận dụng các kiểu từ khác để liên tưởng, kể chuyện, viết 
thư những ý cần so sánh hoặc cần diễn đạt.
 * Mặt yếu:
 - Ở lứa thuổi học sinh lớp 3, trí tưởng tượng chưa cao mà đa số các em chỉ 
diễn đạt theo hình thức trực quan sinh động, nghĩa là các em sẽ viết những gì 
mình thấy, mình chứng kiến. Do đó vận dụng nghĩa của các từ láy để giúp các 
em diễn đạt trong các bài văn là rất hạn chế.
 - Việc học về từ láy ở lớp 3 chưa được triển khai trong chương trình nên 
rất khó cho giáo viên hướng dẫn cho học sinh vận dụng để diễn dạt trong các bài 
tập làm văn của mình.
 d. Các nguyên nhân:
 Môn học Tập làm văn là một môn học đòi hỏi học sinh có trí tưởng tượng 
cao, óc quan sát tinh tế và có nhiều vốn từ để vận dụng vào việc viết thành bài 
văn (Kể chuyện hoặc viết thư). 
 Trong khi đó, lứa tuổi học sinh lớp 3 chủ yếu viết văn theo lối trực quan 
sinh động, nghĩa là các em viết những gì mình thấy hoặc những gì mình được 
chứng kiến. Do đó đa số những bài văn của các em chưa đạt được sự vận dụng 
và kết hợp nhiều yếu tố để diễn đạt ý tưởng của mình trong cách trình bày.
 Với thời gian lên lớp hiện nay còn hạn chế nên đa số giáo viên chỉ tập 
trung chủ yếu vào các bài dạy chính của chương trình nên việc hướng dẫn học 
sinh vận dụng các yếu tố trong cách viết một bài văn chưa được thực hiện được 
hoặc thực hiện chưa được nhiều.
 e. Phân tích, đánh giá các vấn đề về thực trạng mà đề tài đã đặt ra :
 Ở tiểu học nói chung, lớp 3 nói riêng phân môn Tập làm văn góp phần rèn 
luyện tư duy hình tượng, từ óc quan sát tới trí tưởng tượng, từ khả năng tái hiện 
các kỹ năng đã quan sát tới kỹ năng nhào nặn các vật liệu có sẵn trong đời sống 
để xây dựng nhân vật, xây dựng cốt truyện. Khả năng tư duy logic của học sinh Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
 Đứa tay bắt mặt mừng
 Đứa ôm vai bá cổ
 Cặp sách đùa trên lưng”.
 Như vậy ở đoạn thơ trên tác giả đã sử dụng từ láy “hớn hở” để miêu tả thái 
độ rất vui mừng của bạn nhỏ khi gắp các bạn cùng đến lớp buổi khai trường.
 Hoặc khi học bài tập đọc: “Những chiếc chuông reo”, tôi đã nhắc cho học 
sinh biết ở câu cuối bài tác giả đã sử dụng nhiều từ láy để nhấn mạnh ý nghĩa 
câu chuyện: “Tết ấy, những tiếng chuông đất kêu lanh canh trên cây nêu làm 
sân nhà tôi ấm áp và náo nức hẳn lên.
 Với những từ láy đã sử dụng trên, tác giả đã làm cho người đọc thấy được 
tiếng kêu của những quả chuông đất và qua đó đã làm cho tình người càng thêm 
ấm nồng những ngày vui đón tết.
 Như vậy cứ sau mỗi bài học, tôi lại giúp các em hiểu hơn về những từ láy 
được được sử dụng trong các câu chuyện, bài thơ thông qua các tiết tập đọc để 
từ đó cac em tự xác định đúng những từ láy đã được học, tác dụng của nó đối 
với đoạn văn. Cứ như thế sau mỗi bài học các em lại tích lũy thêm một số vốn từ 
trong sự tiếp thu kiến thức của mình.
 Bước 2: Tìm hiểu thêm các từ láy được sử dụng trong một số bài văn 
mẫu.
 Sau những giờ học chính khóa, vào các tiết ra chơi, hoặc các buổi sinh hoạt 
ngoại khóa tôi thương cho các em dọc thêm một số bài văn mẫu để phân tích 
cach dùng từ đặt câu của những học sinh giỏi, qua đó giúp các em biết vận dụng 
một cách sáng tạo trong quá trình viết một bài văn.
 Ví dụ: tôi cho các em đọc một bài văn mẫu kể về một người lao độc trí óc 
của một học sinh giỏi:
 Chú là một họa sĩ, bạn thân của bố em. Hiện chú đang công tác ở trường 
Văn hóa nghiệp vụ của tỉnh. Chú vừa làm công tác quản lí và tham gia giảng 
dạy. Mỗi lần, sáng tác được bức họa nào, chú thường đưa cho bố em bình 
phẩm, góp ý. Hai người có vẻ tâm đầu ý hợp lắm. Đến nhà chú chơi, thấy những 
bức tranh chú vẽ hồi thời kì kháng chiến được lồng vào những cái khung nhỏ 
nhỏ xinh xinh treo trên tường, em rất thích. Nhiều khi thấy em chăm chú nhìn 
vào một bức tranh nào đó, thì chú lại đến bên cạnh, nói cho em biết thời điểm và 
hoàn cảnh vẽ bức tranh ấy. Bức thì vẽ rừng dừa bị bom Mĩ tàn phá, bức thì vẽ 
cảnh tàu địch bị bộ đội ta đánh cháy, đánh chìm trên sông Hàm Luông, bức thì 
vẽ cảnh sinh hoạt của đơn vị chú ở vùng giải phóng v.v Chú là một người dễ 
mến, dễ gần và rất thương yêu trẻ con. Chú nói, bữa nào chú sẽ dạy cho em 
cách vẽ, cách tô màu, cách phóng tranh vì thấy em rất mê môn vẽ. Sáng kiến kinh nghiệm lớp 3
 - Tạo điều kiện cho giáo viên có thời gian về tổ chức các buổi sinh hoạt 
ngoài giờ để giúp học sinh trao đổi, thảo luận về những vốn từ đã được học, qua 
đó vận dụng những vốn từ đó vào trong bài văn viết của mình.
 - Giáo viên cần linh hoạt trong việc giúp học sinh tìm hiểu về những từ 
láy đã học, làm tăng vốn từ cho các em. Qua đó xây dựng cho các em những kỹ 
năng sống cần thiết và vận dụng sáng tạo các vốn từ tỏng trình bày bài văn.
 Giáo viên cần vận dụng sáng tạo và linh hoạt các phương pháp và các 
hình thức dạy học phù hợp với đối tượng học sinh, tránh tình trạng áp dụng máy 
móc. Luôn gần gũi và quan tâm học sinh để tìm hiểu những tâm tư, nguyện vọng 
và có những hình thức tổ chức phù hợp. Phải thường xuyên tham mưu với lãnh 
đạo nhà trường để có những ý kiến chỉ đạo kịp thời sát sao với nội dung bài dạy, 
nhằm giúp học sinh nắm vững những kiến thức mà đề tài muốn đề cập.
 d. Mối quan hệ giữa biện pháp và giải pháp :
 Môn Tập làm văn lớp 3 là một môn học chuyên về lĩnh vực cung cấp các 
kỹ năng rèn luyện học sinh sự sáng tạo, trí tưởng tưởng và khéo léo, tỉ mỷ trong 
suốt quá trình làm việc. Do đó để vận dụng hình thức dạy học của môn học này 
vào chương trình dạy học, giáo viên cần xác định cụ thể giữa hình thức tổ chức 
và các phương pháp tổ chức áp dụng nội dung. Cần xây dựng mối quan hệ chặt 
chẽ giữa biện pháp và giải pháp của đề tài. Cụ thể phải xác định các bước thực 
hiện một cách tỉ mỉ để từ đó từng bước áp dụng giải pháp vào trong bài học. Nếu 
việc xác định cụ thể các biện pháp áp dụng trong chương trình giảng dạy thì giải 
pháp đã nêu trong đề tài chắc chắn sẽ thực hiện có hiệu quả.
 e. Kết quả khảo nghiệm:
 Sau khi áp dụng những giải pháp đã nêu vào trong chương trình giảng dạy 
tôi thấy hiệu quả của đề tài rất rõ. Số lượng học sinh biết so sánh, phân tích sự 
vật và kết luận đúng mục tiêu bài học nhiều hơn trước.
 Tôi đã ra một đề bài như sau:
 Em hãy viết một đoạn văn ngắn từ 5-7 câu kể lại buổi đầu đi học của 
 mình.
 Sau khi chấm bài xong, tôi đã thống kê kết quả như sau:
 - Số em biết sử dụng một số từ láy trong quá trình viết văn của mình và kể 
chuyện logic, hấp dẫn người đọc: 8 em.
 - Số em chưa biết sử dụng một số từ láy nhưng trình bày mạch lạc hơn và 
kể chuyện khá cụ thể: 14 em.
 - Số em kể chuyện chưa thật hay: 6em

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_tu_lay_cho_hoc_si.doc