Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết Tập làm văn cho học sinh Lớp 3

docx 34 trang sangkienlop3 18/03/2024 1290
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết Tập làm văn cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết Tập làm văn cho học sinh Lớp 3

Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng viết Tập làm văn cho học sinh Lớp 3
 Là một giáo viên trẻ chưa có nhiều năm công tác, hưởng ứng phong trào viết 
sáng kiến kinh nghiệm, cô giáo Trịnh Thị Hồng Anh đã có sáng kiến kinh nghiệm 
“Một số biện pháp rèn kĩ năng viết Tập làm văn cho học sinh lớp 3”. Hội đồng 
sáng kiến cấp quận đã công nhận sáng kiến kinh nghiệm này đạt loại B cấp Quận
 A. ĐẶT VẤN ĐỀ
 I/ LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
 Trong sự nghiệp phát triển chung của đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn 
quan tâm đến giáo dục, xem giáo dục là quốc sách hàng đầu. Việc đổi mới nội 
dung chương trình cũng như phương pháp dạy học và giáo dục là một đòi hỏi 
khách quan đối với nền giáo dục nước nhà trong giai đoạn hiện nay. Đáp ứng đòi 
hỏi đó giáo dục chủ trương nhấn mạnh mục tiêu đào tạo con người phát triển toàn 
diện, có đức, có tài, có khả năng thích ứng với đời sống, biết vận dụng sáng tạo 
những kiến thức đã học vào đời sống học tập cũng như đời sống xã hội. Người 
công dân được đào tạo là người công dân Việt Nam của thế kỉ XXI, thích ứng với 
mọi yêu cầu cấp bách trong thực tiễn cách mạng xã hội và khoa học công nghệ.
 Chương trình Tiếng Việt mới bậc Tiểu học gồm các phân môn: Tập đọc; 
Kể chuyện; Tập làm văn; Luyện từ và câu; Chính tả; Tập viết. Phân môn Tập làm 
văn là một phân môn có vai trò quan trọng trong việc dạy học sinh hình thành văn 
bản nói và viết. Đây là một môn khó dạy trong chương trình Tiếng Việt Tiểu học. 
Dạy phân môn Tập làm văn được tốt tức là người giáo viên đã thâm nhập cả chuỗi 
kiến thức từ các phân môn: Tập đọc, Kể chuyện, Luyện từ và câu. Chính vì thế 
mà phân môn Tập làm văn có tính chất tổng hợp, là kết quả lĩnh hội các kiến thức 
của môn Tiếng Việt. Trong chương trình Tiểu học hiện nay, mục tiêu chính của 
môn Tiếng Việt là hình thành và phát triển cho học sinh các kỹ năng: nghe, nói, 
đọc, viết. Đặc biệt ở lớp 3, phân môn Tập làm văn rèn bốn kỹ năng: nói, nghe, 
đọc và viết. Trong giờ tập làm văn học sinh được cung cấp kiến thức về cách làm 
bài và làm các bài tập (nói, viết) xây dựng các loại văn bản và các bộ phận cấu 
thành văn bản. Bên cạnh đó học sinh còn tập kể lại được những mẫu chuyện được 
nghe thầy, cô kể trên lớp. Qua từng nội dung bài dạy, phân môn Tập làm văn 
nhằm bồi dưỡng thái độ ứng xử có văn hoá, tinh thần trách nhiệm trong công việc, 
bồi dưỡng tình cảm lành mạnh tốt đẹp cho học sinh.
 Như vậy, Tập làm văn là một phân môn thực hành của môn Tiếng Việt ở 
Tiểu học, có vị trí đặc biệt quan trọng trong chương trình. Thực hiện nhiệm vụ 
rèn luyện kĩ năng sinh sản văn bản ở dạng nói hay viết, phân môn Tập làm văn 
đồng thời góp phần cùng các môn học khác rèn luyện về tư duy, phát triển ngôn 
ngữ và hình thành nhân cách cho học sinh.
 Để thực hiện tốt mục tiêu của môn học đòi hỏi người giáo viên phải biết 
vận dụng linh hoạt, sáng tạo vào các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học 
sao cho phù hợp với khả năng sử dụng ngôn ngữ và tâm lí lứa tuổi học sinh để giờ 
học diễn ra tự nhiên nhẹ nhàng và có hiệu quả. Trong giảng dạy giáo viên phải có 2 - Phương pháp phân tích, tổng hợp.
 3 - Phương pháp điều tra, khảo sát
 4 - Phương pháp luyện tập, thực hành
 5 - Phương pháp thực nghiệm
 6- Phương pháp trao đổi, tranh luận. 
 V. THỜI GIAN NGHIÊN CỨU:
 - Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 9 năm 2018 đến tháng 3 năm 2019.
 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
 I. CƠ SỞ THỰC HIỆN ĐỀ TÀI:
 1.Cơ sở lý luận :
 Mục tiêu của giáo dục Tiểu học đặt ra là:“Giúp học sinh hình thành những 
cơ sở ban đầu cho sự phát triển đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, 
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở”.
 Trong công cuộc đổi mới hiện nay, ngành giáo dục nói chung và giáo dục 
Tiểu học nói riêng cũng đòi hỏi có sự đổi mới và nâng cao chất lượng giáo dục 
toàn diện, chính vì vậy cần phải có sự điều chỉnh mục tiêu, nội dung và phương 
pháp dạy học một cách phù hợp.
 Tập làm văn là một trong những phân môn có vị trí quan trọng của môn 
Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn rèn cho học sinh tạo lập văn bản, góp phần 
dạy học sinh sử dụng Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt. Để làm được một bài 
văn không những học sinh phải sử dụng cả bốn kỹ năng: nghe - nói - đọc - viết 
mà còn phải vận dụng các kỹ năng về Tiếng việt, về cuộc sống thực tiễn. Vì vậy 
Tập làm văn là phân môn có tính tổng hợp, có liên quan mật thiết đến các môn 
học khác.
 Trong quá trình dạy một tiết Tập làm văn, để đạt mục tiêu đề ra ngoài 
phương pháp của thầy, học sinh cần phải có vốn kiến thức ngôn ngữ về đời sống 
thực tế, khả năng nói và viết phải trôi chảy, lưu loát rõ ràng để người nghe hiểu 
được nội dung mình cần nói, cần viết. Đó chính là yêu cầu cần đạt trong việc rèn 
luỵên khả năng giao tiếp và góp phần đắc lực vào việc giữ gìn, phát huy sự trong 
sáng của Tiếng Việt và hình thành nhân cách con người Việt Nam.
 2.Cơ sở thực tiễn : Người bán quạt may mắn.
 Nâng niu từng hạt giống.
 +) Biết viết đơn, viết tờ khai theo mẫu, viết một bức thư ngắn để báo tin tức, 
để hỏi thăm người thân hoặc kể lại một việc đã làm, biết kể lại nội dung một bức 
tranh đã xem, một văn bản đã học.
 - Trau dồi thái độ ứng xử có văn hóa, tinh thần trách nhiệm trong công việc, 
bồi dưỡng những tình cảm lành mạnh, tốt đẹp qua nội dung bài dạy.
 2/ Nội dung chương trình dạy học Tập làm văn lớp 3:
 Về cấu trúc phân môn Tập làm văn trong sách giáo khoa Tiếng việt 3 có 
54 bài tập. Số lượng bài tập ít hơn so với sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 2 đối với 
phân môn Tập làm văn nhưng nội dung có hệ thống cao hơn lớp 2. Mỗi bài học 
được trình bày từ 1 đến 2 bài tập - gồm bài tập rèn luyện kỹ năng nói và bài tập 
rèn kỹ năng thực hành viết. Trong đó bài tập rèn kỹ năng nói chiếm hơn 70% nhất 
là kiểu bài “Nghe - kể lại chuyện” và “Kể hay nói, viết về một chủ đề”. Đối với 
hai dạng bài này thì nội dung được phân bổ như sau:
 a) Dạng bài: “Kể hay nói, viết” về một chủ đề gồm có 16 bài tập như:
 +) Nói về Đội Thiếu Niên Tiền Phong Hồ Chí Minh.
 +) Nói về thành thị hoặc nông thôn.
 +) Nói về quê hương.
 +) Nói, viết về cảnh đẹp đất nước.
 +) Nói về một ngày hội...
 b) Dạng bài: “Nghe -Kể lại chuyện” gồm có 10 bài tập như :
 +) Nghe - kể: Dại gì mà đổi.
 +) Nghe - kể: Không nỡ nhìn.
 +) Nghe - kể: Tôi cũng như bác.
 +) Nghe - kể: Giấu cày...
 Nhưng năm học 2011-2012, áp dụng chương trình giảm tải của Bộ Giáo dục 
và Đào tạo (áp dụng từ ngày 19/9/2011) thì đã cắt bỏ một số bài tập không yêu 
cầu học sinh làm đó là: +) Có kĩ năng nói, viết một bài văn.
 2. Nhược điểm:
 Giáo viên:
 +) Trong tiết học, giáo viên quá chú trọng vào khâu truyền thụ kiến thức, 
xem nhẹ việc thực hành rèn luyện kĩ năng nói - viết cho học sinh theo các đối 
tượng khác nhau.
 +) Khi tổ chức các hoạt động trong giờ học, giáo viên chưa phân định được 
hoạt động nào là trọng tâm. Hình thức tổ chức dạy còn nghèo do giáo viên chưa 
thực sự đầu tư vào chất lượng của bài soạn.
 +) Giáo viên chưa chịu khó suy nghĩ, tìm tòi, vận dụng các phương pháp 
dạy học và hình thức dạy học khác nhau vào các tiết dạy mà chỉ giảng dạy theo 
một quy trình áp đặt rập khuôn, chưa chú trọng sửa lỗi cho học sinh trong quá 
trình nói – viết.
 Học sinh:
 +) Học sinh lớp 3 các em vẫn đang ở lứa tuổi tò mò, ham học hỏi hay bắt 
chước nhưng lại chóng chán, nhanh quên, ngại tìm hiểu những văn bản dài và khó 
như tập làm văn, các em còn học thụ động, bắt buộc, trong giờ học còn tỏ ra uể 
oải, mệt mỏi không thích học môn Tập làm văn.
 +) Việc tổ chức học tập trên lớp của giáo viên chưa phát huy được vốn ngôn 
ngữ vốn có của các em cũng như chưa khơi dậy ở học sinh sự mạnh dạn tự tin 
trong học tập.
 +) Khả năng tự tin nói trước lớp của các em không tốt, nhiều em còn thiếu 
tự tin, ngại nói trước lớp. Nhiều học sinh không tự tin giơ tay phát biểu trong giờ 
học, nếu được cô gọi thì miễn cưỡng đứng lên trả lời. Còn nhiều học sinh lại không 
dám sáng tạo khi viết văn thường dập khuôn vào gợi ý mẫu nên bài viết thiếu sự 
mềm mại và hay.
 +) Học sinh không được rèn luyện nói trước lớp thường xuyên nên khi bạn 
nói cũng không tập trung nghe. Vì vậy khả năng phân tích nhận xét đánh giá bài 
bạn còn yếu chưa nói gì đến việc chữa lỗi giúp nhau.
 +) Vốn từ ngữ, vốn sống, vốn hiểu biết của các em hạn hẹp, chưa kể đến một 
số bài nội dung chưa gần gũi với học sinh như: lễ hội, buổi biểu diễn nghệ thuật, 
buổi thi đấu thể thao
 +) Khả năng viết của học sinh còn hạn chế do học sinh mới chỉ dừng ở mức 
độ trả lời câu hỏi gợi ý, chưa có ý tưởng phong phú, sáng tạo. Do vậy bài của các Bài viết của học sinh còn gặp những hạn chế sau:
 - Một số bài ý văn còn nghèo, bài viết sơ sài.
 - Diễn đạt còn vụng, lủng củng, từ ngữ lặp lại nhàm chán, còn sử dụng văn 
nói trong bài viết, diễn đạt chưa rõ nghĩa, chưa thoát ý.
 - Từ ngữ dùng không chọn lọc, không có hình ảnh hay và sáng tạo trong bài 
văn.
 - Vốn sống thực tế về nội dung liên quan đến bài viết rất hạn hẹp, không 
phong phú
 - Ngoài ra còn một số lỗi về chính tả.
 Chính với những ưu điểm, nhược điểm trên của học sinh nên tôi và đồng 
nghiệp trong tổ khối rất băn khoăn trước kết quả dạy của giáo viên và chất lượng 
của học sinh, chúng tôi quyết định tìm hiểu để tìm ra nguyên nhân và hướng khắc 
phục cho tồn tại của học sinh.
 IV.CÁC BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH HỌC TỐT PHÂN MÔN 
TẬP LÀM VĂN LỚP 3:
 Trong một tiết Tập làm văn giáo viên không chỉ áp dụng duy nhất một 
phương pháp dạy học mà cần phải vận dụng linh hoạt nhiều phương pháp với 
nhiều hình thức tổ chức khác nhau nhằm phát huy tính tích cực học tập của học 
sinh để cuối cùng đạt được mục đích đó là học sinh hiểu bài và làm được bài.
 Sau đây là những biện pháp mà tôi đã vận dụng trong các tiết Tập làm 
văn của lớp mình :
 Biện pháp 1 . Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong 
các giờ học.
 1.1: Biện pháp dạy học phát huy tính tích cực của học sinh trong việc tích 
lũy vốn từ và lồng ghép kiến thức ở các phân môn khác để nói và viết tập làm 
văn .
 Với thể loại nói - viết trong phân môn Tập làm văn lớp 3, học sinh được rèn 
luyện kĩ năng nói dựa trên những gợi ý ở sách giáo khoa và viết một đoạn văn 
ngắn khoảng 5 đến 6 câu với các chủ đề:
 +) Nói về quê hương.
 +) Nói về gia đình.
 +) Nói về người lao động. Ví dụ:
 Chỉ trí thức Hoạt động của trí thức
 bác sĩ, dược sĩ, giáo viên, nhà văn, khám bệnh, chế tạo thuốc, nghiên 
nhà bác học, kĩ sữ, cứu khoa học,
 - Việc sử dụng và mở rộng vốn từ của học sinh cũng còn nhiều hạn chế, các 
em chưa chú ý cách sử dụng từ thế nào để diễn đạt được thoát ý và câu văn có 
hình ảnh hay. Có một số từ do được nghe và nói trong sinh hoạt hằng ngày thành 
quen thuộc, học sinh vẫn còn sử dụng trong bài văn của mình.
 Ví dụ: Trong bài Tập làm văn tuần 22 : “Nói, viết về người lao động trí óc”, 
có học sinh viết: “Người lao động trí óc mà em kể là bác em. Bác là người làm 
nghề chữa bệnh ở bệnh viện. Bác toàn mặc áo màu trắng khi làm việc”. 
 - Để tránh tình trạng sử dụng từ ngữ như vậy nên năm nay ngay trong bài 
Tập đọc:“Ông tổ nghề thêu”;“Bàn tay cô giáo”;“Người trí thức yêu nước”;
 “Nhà bác học và bà cụ”; hay trong các bài tập của phân môn Chính tả tuần 
21, 22; bài Luyện từ và câu tuần 22, tôi đã cho học sinh tìm các từ ngữ chỉ trí thức 
và chỉ hoạt động của trí thức nhằm giúp các em tích lũy được vốn từ ngữ khi nói 
và viết về một người lao động trí óc. Sau khi học sinh học xong các tiết: Tập đọc; 
Luyện từ và câu bài: “Mở rộng vốn từ sáng tạo”; Chính tả, Kể chuyện,thì học 
sinh đã có thêm vốn từ để chuẩn bị cho bài nói, viết về người lao động trí óc. Sau 
khi có sự chuẩn bị kĩ lưỡng cho tiết học thì học sinh đã thay đổi trong cách viết 
văn của mình.
 Ví dụ: Bài văn của học sinh viết như sau: 
 “Bác Lan là một người lao động trí óc thầm lặng mà em kính trọng nhất. 
Năm nay bác đã ngoài 40 tuổi. Bác có dáng người dong dỏng cao và nước da 
trắng hồng. Hàng ngày bác làm việc ở bệnh viện Thanh Nhàn từ 6 giờ sáng cho 
đến 7 giờ tối bác mới về. Công việc của bác là khám và chữa bệnh cho các bệnh 
nhân. Bác luôn tận tình hỏi han bệnh nhân nhẹ nhàng và kĩ lưỡng để tìm ra phác 
đồ điều trị cho bệnh nhân nhanh khỏi bệnh. Khi tan làm về nhà bác Lan lại là một 
người phụ nữ đảm đang luôn chăm lo đến bữa ăn, giấc ngủ cho mọi người trong 
nhà rất chu đáo. Đêm đêm khi cả nhà ngủ bác lại ngồi hàng giờ trên máy tính và 
nghiên cứu sách vở để học hỏi các phương pháp chữa bệnh tiên tiến ở trên thế 
giới. Nhờ sự tận tâm với nghề mà bác đã cống hiến rất nhiều công trình nghiên 
cứu cho ngành Y để phục vụ đời sống của con người. Em rất tự hào về bác Lan 
và mong muốn mai sau sẽ học thật giỏi để trở thành một bác sĩ giỏi như bác.” 
 - Như vậy, để khắc phục được những hạn chế trên, giáo viên cần hiểu rõ tính 
tích hợp kiến thức giữa các phân môn trong môn Tiếng Việt để từ đó giúp các em 
trang bị vốn kiến thức cơ bản cần thiết cho mỗi tiết học. Khi dạy các phân môn: 

File đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_viet_tap.docx