SKKN Một số giải pháp giúp HS giải bài toán bằng hai phép tính dạng cơ bản ở Lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp giúp HS giải bài toán bằng hai phép tính dạng cơ bản ở Lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số giải pháp giúp HS giải bài toán bằng hai phép tính dạng cơ bản ở Lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN
PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO NGHĨA HƯNG TRƯỜNG TIỂU HỌC NGHĨA LỢI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM “Một số giải pháp giúp học sinh giải bài toán bằng hai phép tính (dạng cơ bản) ở lớp 3 theo mô hình trường học mới VNEN” Tác giả: HOÀNG THỊ LAN Trình độ chuyên môn: Đại học sư phạm Tiểu học Chức vụ: Giáo viên Nơi công tác: Trường Tiểu học Nghĩa Lợi Nghĩa Lợi, tháng 2 năm 2017 1 I. ĐIỀU KIỆN HOÀN CẢNH TẠO RA SÁNG KIẾN Cùng với các môn học khác ở bậc tiểu học, môn Toán là một môn học có tầm quan trọng đặc biệt. Nó giúp học sinh nhận biết được số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Nhờ đó mà học sinh có những phương pháp, kĩ năng nhận thức một số mặt của thế giới xung quanh. Môn Toán còn góp phần rèn luyện phương pháp suy luận, suy nghĩ đặt vấn đề; góp phần phát triển trí thông minh, suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo cho học sinh. Mặt khác, các kiến thức, kĩ năng môn Toán ở Tiểu học còn có nhiều ứng dụng trong đời sống thực tế. Với tầm quan trọng như vậy, việc dạy giải toán có lời văn cho HS lớp 3 là một vấn đề không thể xem nhẹ. Nhưng trên thực tế, có rất nhiều giáo viên đều lầm tưởng rằng, việc dạy giải các bài toán có 1-2 phép tính là một việc làm đơn giản, không có gì là khó khăn, cứ theo “mẫu” mà dập. Nhưng nếu nghiêm túc mổ xẻ, bóc tách vào tận cốt lõi của vấn đề, có lẽ lúc đó ta sẽ thấy những suy nghĩ của mình còn hời hợt và cần phải xem xét lại. Trong nội dung môn Toán ở Tiểu học bao gồm 5 mảng kiến thức: các kiến thức về số học, các kiến thức về yếu tố hình học, đại lượng và phép đo đại lượng, một số yếu tố thống kê, giải toán có lời văn. Trong các nội dung trên thì giải bài toán bằng hai phép tính ở lớp 3 có một vị trí quan trọng. Bởi vì: + Việc giải toán giúp học sinh củng cố, vận dụng và hiểu sâu sắc thêm tất cả các kiến thức về Số học, về Đo lường, về yếu tố Hình học. đã được học. + Khi giải toán học sinh phải biết tập trung vào bản chất của đề toán, biết gạt bỏ những cái thứ yếu, biết phân biệt cái đã cho và cái phải tìm, phân tích để tìm ra đường dây liên hệ giữa các số liệu. Nhờ đó mà các em sẽ sáng suốt hơn, tư duy của các em sẽ linh hoạt hơn, chính xác hơn, cách suy nghĩ và cách làm việc của các em sẽ khoa học và lô-gic hơn. + Việc giải các bài toán còn đòi hỏi học sinh phải biết tự mình xem xét vấn đề, tự mình tìm tòi cách giải quyết vấn đề, tự mình thực hiện các phép tính, 3 Thực tế qua nhiều năm trực tiếp giảng dạy ở lớp 3, tôi nhận thấy học sinh mặc dù đã tự tin hơn trong các hoạt động, có khả năng tự học nhưng khi giải các bài toán bằng hai phép tính còn một số hạn chế sau: + HS còn thụ động trong suy nghĩ, lười học, không động não, rập khuôn máy móc. Các em thường nôn nóng, đọc qua loa đề bài, chưa chú ý đến các dữ kiện, dữ liệu của bài toán. + Các em rất lúng túng khi tóm tắt bài toán bằng lời (viết dài) và bằng sơ đồ đoạn thẳng (độ dài của đoạn thẳng biểu thị tỉ lệ chưa hợp lý). + Một số em chưa biết cách đặt lời giải cho yêu cầu của bài toán, chưa biết cách trình bày bài toán (do chưa phân tích được bài toán, chưa biết cách giải bài toán). Các em chưa trả lời được các câu hỏi bạn nêu: Bài toán cho biết gì? Bài toán hỏi gì?... Đến khi giải toán thì đặt câu lời giải chưa đúng với phép tính, chưa hay hoặc chưa đầy đủ + Các em thường làm bài rất chậm so với dạng các bài tập khác + Khả năng suy luận của học sinh còn hạn chế dẫn đến máy móc, bắt chước, chỉ giải được các bài toán ở mức 1(thực hành, củng cố), mức 2 (vận dụng trực tiếp kiến thức đã học), các bài toán mức 3 (bước đầu vận dụng linh hoạt các kiến thức đã học) còn các bài toán ở mức 4 (vận dụng sáng tạo các kiến thức nhằm đào sâu kiến thức, gắn kiến thức được học với kiến thức cuộc sống, phát triển sáng tạo) thì còn lúng túng, hạn chế. + Kĩ năng tính toán còn thiếu chính xác dẫn đến khi giải bài toán hay sai kết quả, sai tên đơn vị. 1.3. Về phụ huynh: Do một số phụ huynh học sinh còn đi làm ăn xa ít quan tâm đến việc học tập của con em mình, chưa biết cách hỗ trợ, chia sẻ với các em trong việc thực hiện hoạt động ứng dụng. Khảo sát việc “Giải toán bằng hai phép tính” đối với học sinh. Tôi thấy kết quả ban đầu trong các năm học như sau: 5 Ngoài ra, việc áp dụng các trò chơi học tập giữa các tiết học cũng là một yếu tố vô cùng quan trọng giúp HS có niềm hăng say trong học tập, mong muốn nhanh đến giờ học và tiếp thu kiến thức nhanh hơn, chắc hơn. Vì chúng ta biết HS tiểu học nói chung và HS lớp 3 nói riêng có trí thông minh khá nhạy bén và có óc tưởng tượng phong phú, đó là tiền đề tốt cho HS phát triển tư duy toán học nhưng các em cũng rất dễ bị phân tán, rối trí nếu bị áp đặt, căng thẳng hay quá tải. Vì vậy, muốn giờ học có hiệu quả thì đòi hỏi người GV không chỉ chú ý đến rèn luyện kĩ năng, truyền đạt kiến thức cho HS mà cò phải quan tâm chú ý đến việc khuyến khích HS, tạo hứng thú trong học tập. Bên cạnh đó tôi còn sưu tầm thêm (hoặc tự nghĩ ra) các câu chuyện, câu đố, thơ, hoặc hệ thống câu hỏi...về toán học kích thích óc tò mò, sự sáng tạo cho các em. Khuyến khích học sinh sưu tầm thêm hoặc tự nghĩ ra các câu chuyện, tình huống cụ thể, câu đố, thơ, vè ...có nội dung toán học gần gũi trong cuộc sống hàng ngày diễn ra xung quanh các em.Kích thích sự tò mò khơi dậy hứng thú học tập cho học sinh về dạng toán có lời văn gần gũi với các em. 2.2. Giúp học sinh hiểu, nắm chắc logo hoạt động và thực hiện tốt các kỹ thuật học. * Lô gô là gì? Bắt đầu của mỗi hoạt động đều có một hình vẽ (lô gô) cùng với những “Lệnh” thực hiện để HS dễ dàng nhận ra yêu cầu và các hình thức tổ chức thực hiện hoạt động học tập (học cá nhân, theo cặp, nhóm nhỏ hoặc toàn lớp). (Cụ thể ở trang đầu của tài liệu HDH các môn) Trong thiết kế bài học, trước mỗi hoạt động đều có các lô gô chỉ dẫn. HS nhìn lô gô biết hoạt động đó thực hiện cá nhân, hay nhóm đôi, nhóm lớn hoặc chung cả lớp. Lô gô làm việc cá nhân hiểu là cá nhân làm việc là chính. Nhưng khi làm xong có thể đổi vở cho bạn để kiểm tra bài làm của nhau, hoặc báo cáo với nhóm kết quả mình đã làm được. 7 giá bài làm của bạn: Các em nên đưa ra những câu hỏi để đánh giá cách làm của bạn ( Bài này yêu cầu bạn tìm cái gì? Bạn tìm cái ấy bằng cách nào? Bạn tìm cái ấy để làm gì? Vì sao phải tìm cái ấy? Kết quả bài toán đã phù hợp với điều kiện đầu bài cho biết hay chưa?...). Lưu ý cho học sinh khi đặt câu hỏi:- Thái độ thân thiện, gần gũi, ngôn ngữ tự nhiên. Các câu hỏi đưa ra có thể để hỏi cách làm, có thể để gợi ý giúp bạn làm đúng (nếu sai) hoặc giải thích đúng. Khi được bạn nhận xét đánh giá nên có thái độ lắng nghe, tiếp thu, dùng lí lẽ để giải thích cách làm của mình hoặc cách tìm sự hỗ trợ khi không giải thích được cách làm hay không trả lời được câu hỏi của bạn. Từ đó giúp các em vừa hiểu bài sâu hơn vừa nắm được bản chất của bài toán. Phát triển năng lực cũng như phẩm chất của bản thân. 2.3.Hỗ trợ học sinh thành lập ban cốt cán môn học : Ngay từ đầu năm học, khi bầu hội đồng tự quản của lớp, tôi phối hợp với GV Chủ nhiệm lớp cũ, tôi định hướng gợi ý cho các em lên kế hoạch thành lập ban cốt cán các môn học gồm những học sinh có khả năng nhận thức cũng như khả năng ngôn ngữ tốt để hỗ trợ và giúp đỡ bạn. Trong các tiết học nhất là khi dạy các tiết học dạng toán giải bài toán bằng hai phép tính. Thay vì hỗ trợ học sinh yếu trước, tôi thường xuyên quan sát nhanh cách làm của các em trong ban này, hỗ trợ các em nếu cần thiết để các em hoàn thành tốt và nhanh các hoạt động. Sau đó các em sẽ giúp tôi hỗ trợ các bạn, nhóm bạn còn gặp khó khăn, cần sự hỗ trợ để hoàn thành công việc. Các em học sinh đã rất hào hứng tham gia. Các em học sinh có ý thức hỗ trợ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Tôi càng thấm thía câu nói của các cụ ta xưa “Học thầy không tày học bạn”. 2.4.Đẩy mạnh công tác phối kết hợp với phụ huynh học sinh : Ngay từ đầu năm học, khi họp cha mẹ học sinh tôi cùng PHHS thống nhất sẽ thường xuyên trao đổi về tình hình học tập của con em để phối hợp, hỗ trợ, giúp đỡ các em học tốt hơn. Chia sẻ với PHHS cách chia sẻ cùng con về những điều mà con đã biết qua các hoạt động ở lớp, ở trường. Cách hỗ trợ các em khi các em tự học ở nhà. Giới thiệu với phụ huynh các kí hiệu, các lệnh trong sách 9 b) Cả hai cành có mấy con chim? Dạng 2: Dạng toán hợp giải bằng hai phép tính (có liên quan đến “gấp một số lên nhiều lần”). Ví dụ: Cành trên có 3 con chim, số chim ở cành dưới gấp 2 lần số chim ở cành trên. Hỏi cả 2 cành có bao nhiêu con chim? Dạng 3: Dạng toán giải bằng hai phép tính (có liên quan đến "Tìm một phần mấy của một số"). Ví dụ: Minh có quyển truyện dày 132 trang. Minh đã đọc được ¼ số trang của quyển truyện đó. Hỏi Minh còn phải đọc bao nhiêu trang nữa thì hết quyển truyện? Dạng 4: Dạng toán giải bằng hai phép tính nhân, chia có liên quan đến rút về đơn vị. Ví dụ : Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can. a) Hỏi mỗi can đựng bao nhiêu lít mật ong? b) Hỏi 5 can như thế đựng bao nhiêu lít mật ong? Ví dụ : Có 35l mật ong đựng đều vào 7 can. a) Hỏi mỗi can đựng bao nhiêu lít mật ong? b) Hỏi phải cần bao nhiêu can như thế để đựng 10l mật ong? 2.6.Cấu trúc chung giải toán có lời văn: Bước 1: Đọc kĩ và hiểu đề toán (tri giác vấn đề ). Bước 2: Tóm tắt đề toán. Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải. Bước 4: Tổng hợp và trình bày bài giải. Bước 5: Kiểm tra và thử lại các kết quả, tìm cách giải khác. 2.7. Giúp học sinh hình thành kĩ năng giải bài toán bằng hai phép tính: 11 Mục tiêu của bước này là giúp học sinh xác định được 3 yếu tố cơ bản của bài toán: dữ kiện (cái cho biết), điều kiện (cái đã biết), ẩn số (tường minh, không tường minh) . Mối quan hệ giữa cái đã biết và cái phải tìm (điều kiện). - Học sinh biết được dữ kiện bài toán: + Bao thứ nhất: 25 kg + Bao thứ hai: nhẹ hơn bao thứ nhất: 10kg - Điều kiện: + Bao thứ hai: nhẹ hơn bao thứ nhất: 10kg - Hiểu thuật ngữ toán: nhẹ hơn (ít hơn) Bước 2 : Tóm tắt đề toán Như chúng ta đã biết, phần tóm tắt bài toán không phải là một thành phần trong khâu trình bày bài giải, nhưng là phần quan trọng giúp HS có cái nhìn tổng thể về toàn bộ nội dụng bài toán, từ đó tìm được mối liên hệ cần thiết giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua đó, giúp các em biết lựa chọn phép tính thích hợp. Đối với lớp 3 (cũng như đối với HS tiểu học nói chung), sử dụng sơ đồ đoạn thẳng để tóm tắt là hợp lí nhất. Sơ đồ đoạn thẳng không những giúp các em có một cái nhìn khái quát về bài toán mà còn giúp các em nhận ra cái đã biết, cái phải tìm và mối liên hệ giữa chúng. Trong những trường hợp không thể sử dụng được sơ đồ đoạn thẳng thì ta mới nên dùng quy ước bằng lời để tóm tắt. Một điều GV cần ghi nhớ là để HS làm tốt các bài toán hợp thì GV cần hướng dẫn HS rèn luyện tốt kĩ năng giải các bài toán đơn. Vì vậy, việc rèn cho HS thuần thục khâu tóm tắt các bài toán đơn (chủ yếu bằng sơ đồ đoạn thẳng) là không thể thiếu. Việc thuần thục khâu tóm tắt bài toán đơn không những giúp HS nhanh chóng tìm ra lời giải, mà nó còn là cơ sở giúp HS có kĩ năng tóm tắt và giải các bài toán hợp. Việc tóm tắt bài toán sẽ giúp học sinh bớt được một số câu, chữ, làm cho bài toán gọn lại, nhờ đó mối quan hệ giữa các số đã cho và các số phải tìm hiện ra rõ hơn. Mỗi em cần cố gắng tóm tắt được các đề toán và biết cách nhìn vào tóm tắt ấy mà nhắc lại được đề toán. Tóm tắt đúng sẽ giúp các em có cách giải 13
File đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_giup_hs_giai_bai_toan_bang_hai_phep_ti.doc