Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn luyện kĩ năng giải toán dạng tính giá trị biểu thức cho học sinh Lớp 3
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn luyện kĩ năng giải toán dạng tính giá trị biểu thức cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Biện pháp rèn luyện kĩ năng giải toán dạng tính giá trị biểu thức cho học sinh Lớp 3
1 I/ TÊN ĐỀ TÀI: BIỆN PHÁP RÈN LUYỆN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN DẠNG TÍNH GIÁ TRỊ CỦA BIÊU THỨC CHO HỌC SINH LỚP 3/A – NĂM HỌC : 2012- 2013 II/ ĐẶT VẤN ĐỀ : 1.Tầm quan trọng của đề tài: Đại hội đại biểu toàn quốc làn thứ IX của Đảng đã chỉ rõ “ Phát triển giáo dục là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp hoá, hiện đại hoá, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”. Mục tiêu của giáo dục hiện nay là nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Môi trường giáo dục của trường Tiểu học là cái nôi cung cấp cho học sinh những tri thức khoa học, kĩ năng, kĩ xảo cần thiết, giúp các em hình thành và phát triển nhân cách. Mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển những cơ sở ban đầu, rất quan trọng của nhân cách con người. Trong các môn học ở tiểu học, môn Toán có vị trí rất quan trọng. Trong chương trình dạy – học toán ở Tiểu học, chương trình toán lớp 3 đóng một vai trò trọng yếu. Lớp 3 là lớp kết thúc giai đoạn đầu của bậc tiểu học, phải chuẩn bị đầy đủ kiến thức cho cơ sở ban đầu, để học sinh học tốt giai đoạn cuối của bậc Tiểu học và tiếp các cấp học sau này. Người thầy giáo rèn kĩ năng sống cho học sinh Tiểu học theo chương trình dạy- học Trường học kiểu mới Việt Nam (VNEN), đúng với mục tiêu đề ra. Trong nghị quyết Đại hội Đảng lần IX cũng đã nêu ra. “ Tăng cường đổi mới phương pháp giảng dạy, phát huy tính sáng tạo của người học, coi trọng thực hành, ngoại khoá, làm chủ kiến thức, tránh nhồi nhét, học vẹt học chay”. 2.Thực trạng của vấn đề: Lớp 3/a tổng số: 29/14 nữ Trong môn Toán, học sinh học đến phần tính giá trị biểu thức thì nhiều em lúng túng, chưa giải được, giải sai hoặc giải không đúng phương pháp toán học. Học sinh sẽ hỏng kiến thức và gây ảnh hưởng không nhỏ đến các dạng toán liên quan như giải bài toán hợp Trước tình hình thực tế như vậy, để thực hiện những quan điểm đổi mới nói trên, trong dạy học nói chung, dạy học môn toán nói riêng, tôi đã tìm biện pháp: “Rèn luyện kĩ năng giải toán dạng tính giá trị của biểu thức cho học sinh lớp 3/a năm học 2012-2013”. Bản thân tôi thấy rất cần thiết trong việc dạy học môn toán ở lớp 3, mà tôi đã áp dụng trong nhiều năm học qua đạt được kết quả. Trong năm học 2012-2013 theo chương trình dạy học VNEN với lớp 3/a . Trong một tiết học toán chẳng hạn, học sinh chưa thực hiện hoàn thành các hoạt động thì được phép thực hiện tiếp vào buổi chiều. Đây là một quy trình dạy học phù hợp với đề tài mà tôi đã và đang nghiên cứu áp dụng cho lớp học của mình đạt được hiệu quả cao. 3.Lý do chọn đề tài: Trong nhiều năm dạy Tiểu học, bản thân tôi được liên tục giảng dạy lớp 3 ở những năm gần đây, nhiều trường, nhiều lớp, nhiều đối tượng học sinh. Trên 3 của lớp 3 và các dạng giải toán điển hình. Vì vậy đối với việc giải toán trong từng tiết học, để học sinh yếu kém giải toán tính giá trị của biểu thức đúng, quả là khó khăn, cả về trả lời lẫn tính toán.. Kinh nghiệm một số năm học qua, khi giáo viên cùng học sinh dạy và học những tiết học tính giá trị biểu thức vừa xong thì vẫn còn một số học sinh yếu chưa có kĩ năng giải toán dạng tính giá trị biểu thức. Toán học với tư cách là một khoa học nghiên cứu một số mặt của thế giới thực, có một hệ thống kiến thức cơ bản và phương pháp nhận thức cơ bản rất cần thiết cho đời sống, sinh hoạt, lao động. Đó cũng là những công cụ rất cần thiết để học các môn học khác, để tiếp tục nhận thức thế giới xung quanh và hoạt động có hiệu quả trong thực tiễn. Nhưng trên thực tế đối với học sinh đại trà (kể cả học sinh yếu, kém) khi giải dạng toán tính giá trị biểu thức, các em rất ngại làm bài, sợ giải toán vì khả năng tư duy “phân tích, tổng hợp của các em còn nhiều hạn chế”. Bằng phương pháp điều tra, tiếp xúc với học sinh lớp 3, cũng như qua thực tế giảng dạy tôi nhận thấy: Với thực tế học sinh lớp của tôi, còn một số em giải toán dạng tính giá trị biểu thức thiếu chính xác, chưa đúng, tính toán còn sai, nhầm lẫn về thứ tự, phép tính, nhiều khi làm bài chưa có kĩ năng phán đoán, suy luận, không biết làm thế nào? Các em rất sợ học môn toán là môn “thể thao trí tuệ”, vừa giúp các em giải trí tinh thần, vừa giúp việc dạy học tốt môn toán là điều cần thiết mà giáo viên phải suy nghĩ, nghiên cứu, quan tâm. Trong đó “cách giải toán dạng tính giá trị biểu thức” là chú trọng trong chương trình toán 3. Vậy trong quá trình dạy học tôi đã thực hiện một số biện pháp rèn luyện kĩ năng giải dạng toán này. V/ NỘI DUNG NGHIÊN CỨU: A/ Điều tra phân loại: 1. Điều tra phân loại học sinh yếu kém toán ở lớp: -Những em yếu, kém về môn toán. Dĩ nhiên giải toán dạng tính giá trị biểu thức, các em không thực hành được. Ngay từ đầu năm học, tôi đã phân loại đối tượng học sinh để có kế hoạch kèm cặp cùng nhóm học tập và Hội đồng tự quản mà học sinh đã tự bầu chọn ngay từ đầu năm học, để hướng dẫn phương pháp giải toán kịp thời cho từng em, từng bạn. -Lớp 3/a năm học 2012-2013 các em:“ Lý Phong, D L Huyền Vi , Tr. Th. Trâm, D. T. Ánh Tuyết, P. Thanh Khương , Nguyễn T. Sang, N. T. Hồng Oanh, Trần Oai Sơn, Ng Tấn Tài, Hồ Trịnh Xuân Công..”, là những học sinh giải toán còn yếu. Các em không biết giải, hay là giải sai, tính giá trị biểu thức sai, không nắm vững phương pháp làm bài. Tôi luôn luôn quan tâm động viên các em chăm học, tích cực làm bài để các em tự tin vào khả năng của mình để suy nghĩ, phán đoán tìm cách giải đúng. Trong khi chấm bài, chữa bài của học sinh khi cần cứu trợ, tôi ghi nhật kí lại từng chi tiết lỗi sai của các em . Tổng hợp tất cả những lỗi sai sót thường gặp mà học sinh thể hiện ở bài giải, để chữa sai cho cá nhân, nhóm, cả lớp trong giờ lên lớp, giờ phụ đạo, giờ học 2b/ ngày, và cho học sinh tự chấm chữa theo đôi bạn học tốt (học nhóm) dưới sự hướng dẫn của thầy giáo.Vì phần bài học “Tính giá trị của biểu thức có 4 quy tắc, khi truyền thụ kiến thức cho học sinh các em 5 Nắm được cách tìm một thừa số chưa biết, tìm số bị chia, số chia chưa biết và vận dụng vào các bài tập “Tìm X” trong phạm vi 1000. Các biện pháp đó giáo viên phải rèn luyện cho học sinh nắm vững các kiến thức yêu cầu trên. Từ đó học sinh phải nắm về: Muốn tính giá trị biểu thức, thì ta phải nhận biết. Thế nào là biểu thức số ? Đây là một vấn đề quan trọng, mà tôi muốn đề cập đến. 4. Về biểu thức số: -Nhận biết được biểu thức số, đọc và viết được các biểu thức tổng, hiệu, tích, thương của hai số. -Nắm được qui tắc về “Thứ tự thực hiện các phép tính(có nhiều dấu phép tính) trong một biểu thức, (không có dấu ngoặc đơn và có dấu ngoặc đơn), vận dụng để tính được giá trị của biểu thức số có không quá 2 dấu phép tính. -Biết so sánh các tổng, hiệu, tích, thương của hai số với nhau, có sử dụng các dấu , ghi kết quả so sánh. -Biết tìm giá trị đúng của biểu thức để nối đúng biểu thức với kết quả. B/ Rèn kĩ năng giải toán dạng tính giá trị biểu thức. 1. Rèn kĩ năng từ dễ đến khó, từ kiến thức đã học đến kiến thức mới. 1.1: Dạng toán tính giá trị biểu thức: Trong chương trình lớp 3 theo CT hiện hành cũng như CT dạy học VNEN có 7 tiết học về tính giá trị biểu thức: * Chương trình hiện hành: 1 tiết làm quen với biểu thức. 3 tiết tính giá trị biểu thức. 2 tiết luyện tập. 1 tiết luyện tập chung. * Chương trình VNEN là: Bài: Làm quen với biểu thức. Tính giá trị biểu thức (1 tiết Hoạt động cơ bản + 1 tiết Hoạt động thực hành) . Bài: Tính giá trị biểu thức (tiếp theo), (1 tiết Hoạt động cơ bản + 1 tiết Hoạt động thực hành) . Bài: Tính giá trị biểu thức (tiếp theo), (1 tiết Hoạt động cơ bản + 1 tiết Hoạt động thực hành) . Bài: Luyện tập chung (1 tiết Hoạt động thực hành) • Riêng 3 tiết tính giá trị của biểu thức có 4 qui tắc tính giá trị biểu thức: • (Chương trình hiện hành cũng giống như chương trình VNEN) . Biểu thức chỉ có phép tính cộng, trừ : ( + ; - ) . . Biểu thức chỉ có phép tính nhân, chia: ( x ; : ) . . Biểu thức có các phép tính cộng, trừ, nhân, chia: ( + ; - ; x ; : ) . . Biểu thức có dấu ngoặc đơn : ( .) . Đây là dạng toán có tính khái quát, tổng hợp. Đối với học sinh học yếu, trung bình và một số em khá giỏi vẫn chưa thông thạo phương pháp giải bài tập này. Tôi dựa vào cơ sở rèn luyện kĩ năng cộng, trừ, nhân, chia và cho học sinh học thuộc bảng nhân, chia. Tôi đã ôn luyện các em giải dạng toán này trong những buổi học phụ đạo, bồi dưỡng, tiết học phụ đạo bồi dưỡng cụ thể hoá từng cách của từng nhóm tính giá trị biểu thức trong phạm vi 100, 1000. Vận dụng các biện pháp học sinh thực hành, luyện tập từng bước, nắm bắt và hiểu cụ thể: 7 Nếu các em có thói quen thực hiện sai lệch này, về mặt toán học, lập luận giải trình không đúng, lúng túng. Vậy cần chú ý trường hợp này Hoặc: 86 – 10 x 4 = 76 x 4 = 304 Sai ( học sinh không hiểu bài, không nắm kiến thức, lúng túng) 86 – 10 x 4 = 40 – 86 Vậy thực hiện đúng là: 86 – 10 x 4 = 86 – 40 = 46 Trường hợp này giáo viên phải hướng dẫn cụ thể như sau: - Nếu biểu thức có nhân hoặc chia thì phải thực hiện nhân hoặc chia trước rồi phải viết đúng kết quả vừa tính và dấu phép tính còn lại (chưa thực hiện) sang bên phải dấu (=) đúng vị trí. - Còn phép tính (cộng hoặc trừ) chưa thực hiện thì phải viết lại đúng vị trí như ở đề bài thì kết quả mới đúng. Đồng thời cũng hướng dẫn, rèn luyện cách thực hành ở lớp bằng nhiều hình thức học tập như chương trình Dự án của VNEN . Bằng phương pháp dạy học thế nầy đã thực thi, các đối tượng học tập của lớp đã thành thạo kĩ năng giải toán dạng tính giá trị của biểu thức. 1.1.c: Bài 45 (VNEN) Tính giá trị biểu thức (tiếp theo) 1.1.c.1: Trong biểu thức có dấu ngoặc đơn ( ) *Thực hiện phép tính trong ngoặc đơn trước. *Tôi phân tích thành 4 nhóm, có 32 cách tính giá trị biểu thức trong dấu ngoặc đơn trên cùng một qui tắc: 1 2 3 4 (x) x (+) + (x) + (:) + x (x) + (+) x (+) : (+) (:) : (-) - (+) x (+) : : (:) - (-) + (x) + (:) (x) : (+) - (x) - (:) - x (:) + (-) x (-) : (-) (:) x (-) + (-) x (-) : : (x) - (+) - (x) - (:) *Đối với lứa tuổi học sinh tiểu học mà chủ yếu là học sinh lớp 3 chỉ mới 8-9 tuổi. Các em mau nhớ, chóng quên với những kiến thức khái quát trên . Nếu phân tích cụ thể là 48 biểu thức tính giá trị . Nếu giáo viên không phân tích rõ ràng,cụ thể, chi tiết từng cách tính, theo từng nhóm, từng qui tắc mà chỉ giảng dạy theo như sách giáo khoa (Tài liệu hướng dẫn học Toán 3 VNEN) và sách tham khảo hoặc không nghiên cứu biện pháp để rèn luyện phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi, thì e rằng các em không tiếp thu một cách lôgic theo thứ tự. Vậy người thầy giáo phải truyền thụ kiến thức theo các phương pháp, từ cụ thể đến phức tạp, từ dễ đến khó thì kết quả mới đem lại đạt hiệu quả cao trong dạy và học.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_bien_phap_ren_luyen_ki_nang_giai_toan.doc