Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán điển hình Lớp 3
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán điển hình Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán điển hình Lớp 3
MỤC LỤC TT Nội dung Trang I Phần mở đầu 2 1 Lý do chọn đề tài 2 2 Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài 4 3 Đối tượng nghiên cứu 5 4 Giới hạn của đề tài 5 5 Phương pháp nghiên cứu 5 II Phần nội dung 5 1 Cơ sở lý luận 5 2 Thực trạng của vấn đề nghiên cứu 6 3 Nội dung và hình thức của giải pháp 9 a Mục tiêu của giải pháp, biện pháp 9 b Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. 9 c Mối quan hệ giữa các giải pháp, biện pháp 20 d Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên 20 cứu, phạm vi ứng dụng. III Phần kết luận, kiến nghị 21 1 Kết luận 21 2 Kiến nghị 22 Tuy nhiên thực tế trong quá trình dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 3, còn gặp nhiều khó khăn. Giáo viên chúng ta còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải các dạng toán. Còn học sinh không xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu của bài toán, không tìm ra được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Mặt khác, các em chưa biết vận dụng những kiến thức đã học vào trong việc giải toán. Chính vì vậy, khi làm toán giải các em thường hay bị sai do không tìm ra được phép tính và lời giải đúng cho câu hỏi của bài toán. Ví dụ bài 4 trang 89 SGK Toán lớp 3 : Tính chiều dài hình chữ nhật, biết nửa chu vi hình chữ nhật là 60m và chiều rộng là 20m. Một số em chưa phân tích kĩ bài toán, dẫn đến giải bài toán sai. Ví dụ bài 2 trang 128 SGK Toán lớp 3: Có 28kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu ki-lô-gam gạo? Một số em đặt lời không phù hợp với đề bài toán: 3. Đối tượng nghiên cứu. Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3. Học sinh lớp 3A năm học 2017- 2018. 4. Giới hạn của đề tài. Khuôn khổ nghiên cứu: Một số biện pháp giúp học sinh khắc phục khó khăn khi giải toán điển hình ở lớp 3. Đối tượng khảo sát: Học sinh lớp 3A, trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ, xã Dur Kmăl, huyện Krông Ana, tỉnh Đắk Lắk. Nội dung giải toán được sắp xếp hợp lý, đan xen phù hợp với các mạch kiến thức khác, song vì điều kiện và thời gian có hạn, nên tôi chỉ tiến hành nghiên cứu về nội dung và phương pháp dạy học giải toán có lời văn có nội dung hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị ở lớp 3, từ đó có biện pháp giúp đỡ học sinh khắc phục khó khăn. 5. Phương pháp nghiên cứu. - Phương pháp nghiên cứu luận: Nghiên cứu các tài liệu, tạp chí có liên quan đến việc đổi mới phương pháp dạy học. - Phương pháp gợi mở, vấn đáp. - Phương pháp giải quyết vấn đề. - Phương pháp điều tra khảo sát thực tế. - Phương pháp luyện tập, thực hành. II. Phần nội dung 1. Cơ sở lý luận. Dạy Toán học là dạy cho học sinh sáng tạo, là rèn luyện các kỹ năng, trau dồi phẩm chất đạo đức, tính siêng năng, cần cù, chịu khó. Đó là phẩm chất vốn có của con người. Thông qua học Toán để đức tính đó được thường xuyên phát huy và ngày càng hoàn thiện. Chương trình Toán Tiểu học là một công trình khoa học mang tính truyền thống và hiện đại. Việc dạy Toán Tiểu học phải được đổi mới một cách mạnh mẽ về phương pháp, và đánh giá học sinh. Nghiên cứu chương trình Toán lớp 3 chúng ta thấy rằng đó là một nội dung hoàn chỉnh sắp xếp từ dễ đến khó, từ thấp lên cao, từ đơn giản đến phức tạp phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý và đặc điểm nhận thức của trẻ. Dạy toán là dạy cách làm việc sáng tạo, cách suy luận, cách sống nhân văn thời hiện đại. Toán có lời văn thực chất là bài toán thực tế. Nội dung bài toán được nêu thông qua những câu văn nói về quan hệ, tương quan và phụ thuộc có liên quan đến cuộc sống hàng ngày. Cái kho của toán có lời văn là phải lược bỏ những yếu tố về Các em thường lúng túng khi đặt câu trả lời cho phép tính. Có nhiều em làm phép tính nhanh chóng và chính xác nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng, hoặc đặt lời giải không phù hợp với yêu cầu của bài toán. Đối với học sinh lớp 3 việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn gặp khó khăn. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp... Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi giáo viên nêu : "Bài toán cho biết gì ? Chúng ta phải tìm gì ?” .- Tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan. Nhưng có những bài toán có lời văn lại cần nhiều đến tư duy trừu tượng nên học sinh lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí không làm được các dạng toán điển hình. * Bài toán có lời văn có nội dung hình học. - Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình chữ nhật thì lại áp dụng quy tắc tính chu vi hình vuông và ngược lại khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông thì lại áp dụng quy tắc quy tắc tính chu vi hình chữ nhật. - Khi bài toán yêu cầu tính chu vi hình vuông và chu vi hình chữ nhật thì học sinh không nắm chắc quy tắc để vận dụng quy tắc tính, nhầm giữa tính chu vi hình vuông sang tính diện tích hình vuông, nhầm giữa tính chu vi hình chữ nhật sang tính diện tích hình chữ nhật. - Trong bài giải bài toán về chu vi, diện tích các hình khi viết tên đơn vị đo, các em còn bỏ sót, nhầm lẫn. Thông thường kích thước chiều dài và chiều rộng cùng đơn vị đo nào thì chu vi có cùng đơn vị đo đó, nhưng với diện tích thì đơn vị đo lại khác. Ví dụ : Với hình chữ nhật có chiều dài 9 cm, chiều rộng 6cm thì đơn vị đo của chu vi là cm, nhưng đơn vị đo của diện tích là cm2. - Trong trường hợp số đo các cạnh không cùng đơn vị thì học sinh chưa biết đổi ra cùng đơn vị đo. - Học sinh nhận diện hình chậm, không hiểu thuật ngữ toán học, không biết bài đã cho dữ kiện nào để áp dụng vào giải toán. Không nắm được các thao tác giải toán, không biết tư duy bài toán (bằng lời hoặc hình vẽ) nên trình bày sai lời giải, sai bài toán, đáp số sai, thiếu. - Một số học sinh còn nhầm khi bài toán cho chu vi hình vuông đi tìm cạnh, học sinh không hiểu bài toán ngược lại áp dụng công thức cạnh hình vuông bằng chu vi chia cho 4. - Ngoài ra còn một số bài toán đòi hỏi học sinh phải tư duy tìm các công thức đã cho để giải. Khả năng giải bài toán mang tính chất tổng hợp kiến thức của các em còn hạn chế, các em quên mất kiến thức cũ liên quan nên giải bài toán bị sai. *Bài toán liên quan đến rút về đơn vị d) Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. * Từ phía giáo viên : Từ việc dạy theo kiểu áp đặt của giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động các quy tắc, các công thức,học sinh nắm kiến thức không vững, không sâu, không hiểu được bản chất của vấn đề, chỉ biết áp dụng rập khuôn, máy móc. Một số giáo viên còn chưa quan tâm đến học sinh chưa hoàn thành. * Từ phía học sinh: - Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin. Kĩ năng nhận dạng bài toán và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời văn còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng toán. - Học sinh đi học thất thường. Việc nhận thức của một số em còn chậm, chưa chịu khó học. - Một số học sinh tiếp thu chậm nên có tâm lí chán học, thường xuyên nghỉ học ở nhà đi làm giúp bố mẹ hoặc làm thuê. Một số em có tính hiếu động thường trêu ghẹo, nói chuyện, đùa giỡn trong giờ học. * Từ phía cha mẹ học sinh. - Phụ huynh chưa quan tâm đến việc học của con em mình, các em chưa có ý thức học tập, rèn luyện tu dưỡng đạo đức nên giáo viên phải tốn nhiều công sức để dạy bảo các em. Rất ít gặp gỡ giáo viên để trao đổi về việc học tập, sinh hoạt của con em mình ở trường cũng như ở nhà. Một số phụ huynh coi việc giáo dục trẻ là bổn phận và trách nhiệm của nhà trường mà đặc biệt là của giáo viên. Có rất nhiều nguyên nhân ảnh hưởng đến kết quả dạy và học, xong đây chỉ là một số nguyên nhân, mà trong chương trình công tác và nghiên cứu làm đề tài tôi phát hiện ra. Những nguyên nhân trên tác động lẫn nhau làm giảm hứng thú học tập của học sinh, làm cho các em thiếu tự tin chưa cố gắng vươn lên dẫn đến kết quả học tập không tốt. Để khắc phục những tồn tại trên cần phải có biện pháp khắc phục hợp lí. 3. Nội dung và hình thức của giải pháp. a. Mục tiêu của giải pháp Đưa ra một số biện pháp, giúp học sinh khắc phục khó khăn, khi giải các bài toán điển hình ở lớp 3, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học toán ở Tiểu học. b. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp. b.1. Nội dung dạy các bài hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Tiết 84 : Hình chữ nhật. mới (phương pháp dạy học tích cực). Trong quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng triệt để biện pháp này vì học sinh muốn giải được các bài toán thì cần phải được trang bị đầy đủ những kiến thức có liên quan đến việc giải toán mà những kiến thức này chủ yếu được cung cấp qua các tiết lý thuyết. Do vậy dưới sự dẫn dắt của giáo viên, học sinh cần tìm ra được cách giải bài toán và cần phải được chính xác nhờ sự giúp đỡ của giáo viên. Qua quá trình tự tìm tòi, khám phá kiến thức mới dựa trên những cái đã biết giúp các em hiểu sâu hơn, nhớ lâu kiến thức ấy hơn nếu như tự mình tìm ra kiến thức ấy. Bất kỳ biện pháp mới nào cũng phải dựa trên một số kiến thức, kĩ năng đã biết. Người giáo viên cần nắm chắc rằng : Để hiểu được biện pháp mới, học sinh cần biết gì ? đã biết gì ? (cần ôn lại), điều gì là mới (trọng tâm của bài) cần dạy kỹ ; các kiến thức, kĩ năng cũ sẽ hỗ trợ cho kiến thức, kỹ năng mới. Trên cơ sở đó, phần đầu tôi ôn lại kiến thức có liên quan bằng các hình thức như sau : Hỏi đáp miệng, làm bài tập, sửa bài tập về nhà (những bài có điểm tựa kiến thức có liên quan để chuẩn bị cho bài mới). Cuối mỗi bài học, tôi luôn luôn khắc sâu kiến thức cơ bản, trọng tâm cần ghi nhớ cho các em. Muốn cho các em có thể nhớ và vận dụng các công thức, tôi thường xuyên cho học sinh ôn tập, tổng hợp, tăng cường so sánh, đối chiếu để hệ thống hóa các quy tắc và công thức tính toán, giúp các em hiểu và nhớ lâu, tái hiện nhanh. Những kiến thức các em cần nhớ cụ thể như sau : * Đối với loại toán có nội dung hình học : Việc cho học sinh nhớ đặc điểm của hình vuông, hình chữ nhật cũng rất quan trọng. Để học sinh biết vận dụng cho đúng quy tắc, công thức ứng với hình đó. - Hình vuông có 4 góc vuông và 4 cạnh bằng nhau. - Hình chữ nhật có 4 góc vuông, có 2 cạnh dài bằng nhau và 2 cạnh ngắn bằng nhau. Ví dụ : với hình chữ nhật, tôi hướng dẫn học sinh biết đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính. Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán. tôi yêu cầu học sinh ghi nhớ công thức tính chu vi, diện tích của hình vuông hoặc hình chữ nhật. - Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta lấy chiều dài cộng chiều rộng (cùng đơn vị đo) rồi nhân với 2. - Muốn tính chiều rộng ta tính nửa chu vi rồi trừ chiều dài.
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_khac_ph.doc