Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính
1 .Tên biện pháp: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán bằng 2 phép tính” 1. Thực trạng vấn đề nghiên cứu. a. Về giáo viên: Trong quá trình dạy học giáo viên chưa có sự chú ý đúng mức, tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm được kiến thức. Những phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Cách tổ chức dạy học của một số ít giáo viên vẫn còn mang tính hình thức, rập khuôn. Một số giáo viên còn phụ thuộc nhiều vào sách hướng dẫn. Không sử dụng đồ dùng trực quan (sơ đồ, vẽ hình, tóm tắt,) hoặc sử dụng không hiệu quả. Đôi khi vận dụng phương pháp chưa nhịp nhàng, chưa linh hoạt. Giáo viên chưa coi trọng việc hướng dẫn tổ chức học sinh biết cách tìm hiểu phân tích, tổng hợp bài toán, bỏ qua bước phân tích bài toán khi hướng dẫn học sinh thực hành giải toán, thường là cho học sinh đọc đề toán, cho học sinh xác định điều kiện cho biết và yêu cầu cần tìm sau đó cho học sinh giải. b. Về phía học sinh Tổng số học sinh : em, trong đó : Nữ : em; Dân tộc : em; Nữ DT : em. Lớp nằm ở phân hiệu trường Chính trường Tiểu học, đóng trên địa bàn. Địa bàn rộng, giao thông đi lại khó khăn nhất là về mùa mưa. Đa số các em là con em dân tộc thiểu số. Đời sống của người dân còn nhiều thiếu thốn cả về vật chất, tinh thần. Trong đó học sinh thuộc diện hộ nghèo và cận nghèo : em. Đặc biệt có 2 em vì điều kiện kinh tế nên không ở cùng với bố mẹ. Học sinh khi giải các bài toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Các em thường lúng túng khi đặt câu trả lời cho phép tính. Có nhiều em làm phép tính nhanh chóng và chính xác nhưng không làm sao tìm được lời giải đúng, hoặc đặt lời giải không phù hợp với yêu cầu của bài toán. Đối với học sinh lớp 3 việc đọc đề, tìm hiểu đề đang còn gặp khó khăn. Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao, nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm chạp... Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu được đề, chưa trả lời các câu hỏi giáo viên nêu : "Bài toán cho biết gì ? Chúng ta phải tìm gì ?” .- Tư duy của các em chủ yếu dựa vào đặc điểm trực quan. Nhưng có những bài toán có lời văn lại cần nhiều đến tư duy trừu tượng nên học sinh lúng túng, gặp nhiều khó khăn, thậm chí không làm được các dạng toán điển hình. Trang 1 Học sinh hay đặt ngược phép tính là : 3 x 6 = 18 (viên) Như vậy: Khi học sinh giải bài toán dạng 1 hay viết lời giải sai hoặc ghi sai đơn vị, phép tính sai vì đặt ngược... Dạng 2: Bước 1: Tìm giá trị một phần thực hiện phép chia. Bước 2 : Biết giá trị một phần thực hiện phép chia để tìm kết quả theo câu hỏi của bài toán. - Học sinh thường sai : Trả lời sai, ghi đơn vị nhầm. Ví dụ : Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiêu hàng như thế ? Bước 1: tìm giá trị một phần. - Học sinh viết lời giải sai (Mỗi hàng xếp được bao nhiêu học sinh là). Lời giải đúng là (Mỗi hàng xếp được số học sinh là) Bước 2 : Ở lời giải 2 học sinh ghi đơn vị sai (lấy 60 : 5 = 12 (học sinh). Ghi đơn vị đúng phải là (lấy 60 : 5 = 12 (hàng) * Theo thống kê khi dạy dạng toán có lời văn, những bài đầu tiên ở HKI học sinh còn nhầm lẫn : Đặt lời giải Đặt phép tính và tính Đơn vị Lớp TS DT Đạt Chưa đạt Đúng Sai Đúng Sai HS TS SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL SL TL (%) (%) (%) (%) (%) (%) 3A 25 11 12 48,0 13 52,0 15 60,0 10 40,0 11 46,4 14 53,6 2. Một số nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên. a. Về phía giáo viên : Từ việc dạy theo kiểu áp đặt của giáo viên và học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động các quy tắc, các công thức,học sinh nắm kiến thức không vững, không sâu, không hiểu được bản chất của vấn đề, chỉ biết áp dụng rập khuôn, máy móc. Một số giáo viên còn chưa quan tâm đến học sinh chưa hoàn thành. b. Về phía học sinh: - Việc lĩnh hội kiến thức ở các lớp trước chưa đầy đủ, còn những lỗ hổng về kiến thức. Một số em có thái độ học tập chưa tốt, ngại cố gắng, thiếu tự tin. Kĩ năng nhận dạng bài toán và kĩ năng thực hành diễn đạt bằng lời văn còn hạn chế. Một số em tiếp thu bài một cách thụ động, ghi nhớ bài còn máy móc nên còn chóng quên các dạng toán. - Học sinh đi học thất thường. Việc nhận thức của một số em còn chậm, chưa chịu khó học. Trang 3 đối lớn trong nhiều tiết học cũng như toàn bộ chương trình môn toán. Việc dạy và học giải toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh biết cách vận dụng những kiến thức về toán, được rèn kỹ năng thực hành với những yêu cầu được thực hiện một cách đa dạng phong phú. Thông qua việc giải toán giúp học sinh ôn tập, hệ thống hóa, củng cố các kiến thức và kĩ năng đã học. Học sinh Tiểu học nhất là học sinh lớp 1,2,3 chưa có đủ khả năng lĩnh hội kiến thức qua lý thuyết thuần túy. Hầu hết các em phải đi qua các bài toán, sơ đồ trực quan. Từ đó mới dễ dàng rút ra kết luận, các khái niệm và nội dung kiến thức cơ bản. Các kiến thức đó khi hình thành lại được củng cố, áp dụng vào bài tập với mức độ nâng cao dần từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Thông qua hoạt động giải toán rèn cho học sinh tư duy logic, diễn đạt và trình bày một vấn đề toán học nói riêng trong đời sống. Ở bậc Tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng, do đặc điểm nhận thức ở lứa tuổi này các em hay làm việc mình thích, những việc nhanh lấy kết quả. Vì vậy trong quá trình giảng dạy toán có lời văn, người giáo viên phải biết đưa ra mâu thuẫn, tình huống đặc biệt để khơi dạy trí tò mò của học sinh, khéo léo để các em phát huy tối đa năng lực sáng tạo độc lập, tự giải quyết các vấn đề mà các em thấy tự tin, phấn khởi. Từ đó các em hình thành khái niện từ chính sự tư duy của mình. Giải toán lời văn không chỉ giúp học sinh thực hành vận dụng các kiến thức đã học vào thực tế rèn luyện khả năng diễn đạt ngôn ngữ thông qua trình bày lời giải một cách rõ ràng, chính xác và khoa học. Tuy nhiên thực tế trong quá trình dạy và học giải toán có lời văn ở lớp 3, còn gặp nhiều khó khăn. Giáo viên chúng ta còn lúng túng trong việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải các dạng toán. Còn học sinh không xác lập được mối quan hệ giữa các dữ liệu của bài toán, không tìm ra được mối quan hệ giữa cái đã cho và cái phải tìm trong điều kiện của bài toán. Mặt khác, các em chưa biết vận dụng những kiến thức đã học vào trong việc giải toán. Chính vì vậy, khi làm toán giải các em thường hay bị sai do không tìm ra được phép tính và lời giải đúng cho câu hỏi của bài toán. Ví dụ bài 4 trang 89 SGK Toán lớp 3 : Tính chiều dài hình chữ nhật, biết nửa chu vi hình chữ nhật là 60m và chiều rộng là 20m. Một số em chưa phân tích kĩ bài toán, dẫn đến giải bài toán sai. Trang 5 Vì các em thường lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính. Có nhiều em làm phép tính chính xác và nhanh chóng nhưng đặt lời giải không phù hợp với đề bài toán. Một số em mới chỉ đọc được đề toán chứ chưa hiểu đề, chưa trả lời các câu hỏi giáo viên nêu : Bài toán cho biết gì ? Chúng ta phải tìm gì ? Chính vì thế, vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để nâng cao chất lượng dạy học môn toán ở trường Tiểu học ? làm thế nào để nâng cao hứng thú học tập cho học sinh? Hàng loạt câu hỏi đặt ra và nó đã làm cho bao nhiêu thế hệ thầy cô phải trăn trở suy nghĩ. Là giáo viên đã giảng dạy, tôi nhận thấy mình phải có trách nhiệm trong việc giúp đỡ học sinh có được kết quả học tập cao. b. Mục tiêu cụ thể - Nghiên cứu chuẩn chương trình nội dung dạy học các bài toán điển hình ở lớp 3. - Nghiên cứu chung về phương pháp giảng dạy môn toán. - Điều tra những khó khăn mà giáo viên và học sinh thường mắc phải. - Đề xuất những biện pháp khắc phục. III. NỘI DUNG VÀ CÁCH THỨC THỰC HIỆN GIẢI PHÁP. 1. Nội dung dạy các bài hình học và bài toán liên quan đến rút về đơn vị. Tiết 84 : Hình chữ nhật. Tiết 85 : Hình vuông. Tiết 86 : Chu vi hình chữ nhật. Tiết 87 : Chu vi hình vuông. Tiết 88 : Luyện tập. Tiết 141: Diện tích hình chữ nhật. Tiết 142 : Luyện tập. Tiết 143 : Diện tích hình vuông. Tiết 144 : Luyện tập. - Nội dung dạy các bài toán có lời văn liên quan đến rút về đơn vị, cụ thể: Trang 7 Cuối mỗi bài học, tôi luôn luôn khắc sâu kiến thức cơ bản, trọng tâm cần ghi nhớ cho các em. Muốn cho các em có thể nhớ và vận dụng các công thức, tôi thường xuyên cho học sinh ôn tập, tổng hợp, tăng cường so sánh, đối chiếu để hệ thống hóa các quy tắc và công thức tính toán, giúp các em hiểu và nhớ lâu, tái hiện nhanh. Những kiến thức các em cần nhớ cụ thể như sau : * Đối với loại toán có nội dung hình học : Việc cho học sinh nhớ đặc điểm của hình vuông, hình chữ nhật cũng rất quan trọng. Để học sinh biết vận dụng cho đúng quy tắc, công thức ứng với hình đó. - Hình vuông có 4 góc vuông và 4 cạnh bằng nhau. - Hình chữ nhật có 4 góc vuông, có 2 cạnh dài bằng nhau và 2 cạnh ngắn bằng nhau. Ví dụ : với hình chữ nhật, tôi hướng dẫn học sinh biết đâu là cạnh chiều dài của hình, đâu là cạnh chiều rộng của hình chữ nhật. Từ đó học sinh biết vận dụng vào giải các bài toán áp dụng trực tiếp quy tắc đã xây dựng để vận dụng tính. Học sinh cần nắm chắc quy tắc, công thức tính, từ đó mới rèn luyện được kỹ năng tính toán. tôi yêu cầu học sinh ghi nhớ công thức tính chu vi, diện tích của hình vuông hoặc hình chữ nhật. - Muốn tính chu vi hình chữ nhật ta lấy chiều dài cộng chiều rộng (cùng đơn vị đo) rồi nhân với 2. - Muốn tính chiều rộng ta tính nửa chu vi rồi trừ chiều dài. - Muốn tính chiều dài ta tính nửa chu vi rồi trừ chiều rộng. Tôi cho học sinh hiểu "nửa chu vi”chính là tổng của chiều dài và chiều rộng. - Muốn tính diện tích hình chữ nhật ta lấy chiều dài nhân với chiều rộng (cùng một đơn vị đo). - Muốn tính chiều rộng ta lấy diện tích chia cho chiều dài. - Muốn tính chiều dài ta lấy diện tích chia cho chiều rộng. - Muốn tính chu vi hình vuông ta lấy độ dài một cạnh nhân với 4. - Muốn tính cạnh hình vuông ta lấy chu vi chia cho 4. - Muốn tính diện tích hình vuông ta lấy độ dài một cạnh nhân với chính nó. - Muốn tính cạnh hình vuông ta tìm số nào nhân với chính nó thì bằng diện tích. Ví dụ : S = 36cm2 thì cạnh là 6cm, vì 36 = 6 x 6. Trang 9 - Nếu đơn vị ở bước 1 và đơn vị phải tìm khác nhau thì làm phép chia. Ví dụ : Dạng 1 : Bài 1 trang 128. "Có 24 viên thuốc chứa đều trong 4 vỉ. Hỏi 3 vỉ thuốc đó có bao nhiêu viên thuốc ? " Bước 1 : Một vỉ thuốc có số viên thuốc là : 24 : 4 = 6 (viên) Bước 2 : Ba vỉ thuốc có số viên thuốc là : 6 x 3 = 18 (viên) Ta quan sát thấy đơn vị ở bước 1 và đơn vị phải tìm là giống nhau, nên (phép tính bước 2 là phép nhân) Dạng 2 : Có 45 học sinh xếp thành 9 hàng đều nhau. Hỏi có 60 học sinh thì xếp được bao nhiêu hàng như thế ? Bước 1 : Mỗi hàng xếp được số học sinh là: 45 : 9 = 5 ( học sinh) Bước 2 : 60 học sinh xếp được số hàng là : 60 : 5 = 12 (hàng) Ta quan sát thấy đơn vị ở bước 1 và đơn vị phải tìm là khác nhau, nên (phép tính bước 2 là phép chia) - “Bài toán liên quan đến rút về đơn vị” được hiểu là bài toán mà trong cách giải trước hết cần thực hiện ở bước 1 là : “tính giá trị một đơn vị của đại lượng nào đó” hay cần phân tích rút về đơn vị. Bước 2 là “Tính kết quả và trả lời câu hỏi của bài toán”. Cách giải thường là: “Gấp lên một số lần” hoặc “Số lớn gấp mấy lần số bé”. Giải pháp 2 : Biện pháp hình thành và rèn luyện kĩ năng giải toán điển hình. Tôi hướng dẫn học sinh nắm vững đường lối chung giải bài toán có lời văn. - Bước 1 : Đọc kĩ đề bài; - Bước 2 : Tóm tắt bài toán; - Bước 3 : Phân tích bài toán; - Bước 4 : Giải bài toán. Bước 1: Cho học sinh đọc kỹ đề bài để xác định : Cái đã cho, cái phải tìm. Trước hết muốn tìm hiểu đầu bài, cần hiểu rõ cách diễn đạt bằng lời văn của bài toán, các bài toán dưới dạng một bài văn viết, thường xen trộn 3 thứ ngôn ngữ : Ngôn ngữ tự nhiên, thuật ngữ toán học và ngôn ngữ kí hiệu (chữ số, các dấu phép tính, các dấu quan hệ và dấu ngoặc), nên việc hướng dẫn đọc và hiểu đầu bài toán rất quan trọng giúp các em sử dụng được ngôn ngữ kí hiệu đặc biệt, làm các em hiểu được nghĩa của các thuật ngữ và kí hiệu sử dụng đúng. Trang 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_g.doc