Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải toán có lời văn nhanh và chính xác
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải toán có lời văn nhanh và chính xác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh Lớp 3 giải toán có lời văn nhanh và chính xác
ỦY BAN NHÂN DÂN TỈNH HẢI DƯƠNG SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BẢN MÔ TẢ SÁNG KIẾN MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 3 GIẢI TOÁN CÓ LỜI VĂN NHANH VÀ CHÍNH XÁC Môn: Toán Năm học 2020 - 2021 1 THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải toán có lời văn nhanh và chính xác”. 2. Lĩnh vực áp dụng kinh nghiệm: Học sinh lớp 3 3. Tác giả: Nguyễn Thị Vân Hà Nam (nữ): Nữ Ngày/tháng/năm sinh: 26/12/1975 Trình độ chuyên môn: Cao Đẳng Sư phạm Tiểu học Chức vụ, đơn vị công tác: Giáo viên Trường Tiểu học Lam Sơn Điện thoại: 0368 653 216 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Trường Tiểu học Lam Sơn - Thanh Miện - Hải Dương Điện thoại: 0368 653 216 5. Đơn vị áp dụng sáng kiến lần đầu: Trường Tiểu học Lam Sơn - Thanh Miện - Hải Dương 6. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Cơ sở vật chất phục vụ cho việc dạy Toán: đồ dùng trực quan, tranh ảnh, bảng nhóm..... - Giáo viên đạt trình độ chuẩn, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng. 7. Thời gian áp dụng sáng kiến lần đầu: Năm học 2020 - 2021 TÁC GIẢ XÁC NHẬN CỦA ĐƠN VỊ (ký tên) ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Vân Hà XÁC NHẬN CỦA PHÒNG GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO 3 thiết phải viết vào phần trình bày bài giải (mục đích tóm tắt bài toán là làm rõ giả thiết, bài toán cho gì và kết luận, bài toán hỏi gì; từ đó thiết lập mối quan hệ giữa cái đã biết với cái cần tìm dẫn đến cách giải thích hợp). - Về trình bày bài giải, học sinh viết câu lời giải và phép tính tương ứng. GV kiên trì để học sinh tự diễn đạt câu trả lời bằng lời, sau đó viết câu lời giải. Cái khó nhất của bài toán có lời văn ở lớp 3 chính là trình bày bài giải, do đó giáo viên tập cho học sinh diễn đặt câu hỏi theo nhiều cách khác nhau, không vội vàng và làm thay học sinh. - Khi dạy phần tính độ dài đường gấp khúc hoặc tính chu vi hình tam giác, tứ giác, hình vuông, hình chữ nhật các bài toán dạng đó (bài toán có nội dung hình học) được trình bày bài giải như các bài toán có lời văn đã học. 4. Khẳng định giá trị, kết quả đạt được của sáng kiến: Với cách dạy và học trên học sinh chăm chú say mê học toán, các em không ngại khi giải các bài toán có lời văn. Học sinh tích cực, chủ động tìm tòi, sáng tạo xây dựng kiến thức của bài học. Nhờ vậy mà học sinh nắm bài nhanh, nhớ kiến thức lâu hơn, chắc hơn và tự tin làm cho không khí tiết học sôi nổi, không gò bó, học sinh được thực sự bộc lộ hết khả năng của mình. Từ đó học sinh có hứng thú học toán, tạo thành thói quen tự suy nghĩ, chủ động làm bài để tìm ra cách giải hay và nhanh nhất. 5. Đề xuất khuyến nghị để thực hiện áp dụng hoặc mở rộng sáng kiến. Trong năm học tiếp theo, tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu để áp dụng biện pháp nâng cao chất lượng dạy giải toán có lời văn cho học sinh ở các lớp 4, 5 đạt hiệu quả. 5 đức tính tốt của con người lao động mới, rèn luyện các em đức tính kiên trì, tự lực vượt khó, cẩn thận, chính xác, có kế hoạch yêu thích sự chặt chẽ, - Việc dạy – học giải toán có lời văn còn giúp các em học tốt các môn khác, cụ thể như môn Tiếng Việt. Các em biết dùng từ đặt lời giải hay, ngắn gọn, - Việc giải toán có thể giúp các em thấy được nhiều khái niệm toán học, ví dụ: các số, các phép tính, các đại lượng ... đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được các mối quan hệ biện chứng giữa các dữ kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm .. 1.2. Xuất phát từ việc dạy và học giải toán có lời văn. Nhìn lại quá trình dạy học tôi thấy: hoạt động giải toán là một trong những biểu hiện năng động nhất của hoạt động trí tuệ ở học sinh. Vì giải toán có lời văn giúp học sinh có khả năng tư duy tốt, biết phát hiện dữ kiện, tìm điều chưa biết, nó phát huy được tính tích cực của mỗi em Ngoài ra việc giải toán có lời văn còn hình thành cho học sinh đức tính cẩn thận, kiên trì Tuy nhiên trong thực tế thì có rất ít học sinh có được điều đó thông qua việc giải toán. Để giúp học sinh giải toán có lời văn tốt người giáo viên phải biết tổ chức hướng dẫn cho học sinh các hoạt động dưới sự trợ giúp đúng mức của giáo viên để mỗi học sinh tự phát hiện và giải quyết bài toán thông qua việc thiết lập mối quan hệ giữa kiến thức mới và kiến thức đã học từ trước. Phần lớn tâm lí học sinh rất thích học môn Toán hơn so với các môn khác nhưng thực tế các em chỉ thích làm toán số, còn với giải toán có lời văn thì hầu như các em rất sợ thậm chí mới đọc đề xong các em đã cho rằng bài khó, không chịu suy nghĩ, .... Vì vậy kết quả việc giải toán của các em còn thấp. Tôi đang dạy lớp 3, khi dạy học sinh giải toán có lời văn tôi đã tìm ra được một số biện pháp giúp học sinh lớp 3 giải nhanh và chính xác Toán có lời văn, từ đó các em yêu thích giải toán hơn. 2. Cơ sở lý luận của vấn đề. 2.1. Nội dung kiến thức về giải toán có lời văn ở lớp 3: 2.2. Các bài toán về nhiều hơn, ít hơn – so sánh hai số hơn kém nhau bao 7 Trong quá trình dạy học sinh lớp 3 giải toán có lời văn, tôi thấy các em chưa có kỹ năng tóm tắt, mắc phải những sai lầm về cách đặt lời giải, viết và làm phép tính. Một phần là do tư duy của các em còn trừu tượng, vẫn còn máy móc chưa có khả năng phát hiện nhanh vấn đề, thường hay quên. Các em thường không hiểu bản chất của bài toán, không đọc kĩ bài toán mà thường giải luôn nên khả năng nhầm lẫn và sai sót là rất lớn, giải xong các em thường không kiểm tra lại kết quả dẫn đến việc không biết mình làm đúng hay sai. Ngoài những nguyên nhân xuất phát từ học sinh, còn là do giáo viên chưa chú trọng đến việc hình thành cho học sinh kĩ năng, phương pháp giải, chưa phát huy được tính độc lập, tích cực của học sinh: việc hướng dẫn học sinh phương pháp giải các dạng toán điển hình sao cho học sinh hiểu, nắm được phương pháp giải từng dạng toán khác nhau. Làm sao để học sinh sau khi đọc đề toán hiểu đề, nhận dạng đề toán, biết phân tích đề, tóm tắt đề bằng chữ, bằng sơ đồ đoạn thẳng, Người giáo viên còn lúng túng trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi gợi mở, dẫn dắt học sinh để giúp học sinh tìm ra hướng giải bài toán theo từng dạng toán khác nhau, Một số giáo viên chưa dành thời gian để nghiên cứu, nắm vững chương trình cấu trúc SGK và cấu trúc nội dung toán có lời văn Với hạn chế trên, tôi thấy nguyên nhân chính là nằm ở giáo viên. Trước sự bất cập đó, tôi đã lựa chọn những biện pháp sau để nhằm nâng cao chất lượng về giải toán có lời văn cho học sinh. 4. Các biện pháp thực hiện: 4.1. Giúp học sinh nắm chắc và ghi nhớ các bước thực hiện khi giải toán có lời văn. 4.1.1. Cấu trúc chung của đề toán Đề bài của bài toán có lời văn bao giờ cũng có hai phần: - Phần đã cho hay còn gọi giả thiết của bài toán. - Phần phải tìm hay còn gọi kết luận của bài toán. 9 Thực tế có rất nhiều cách tóm tắt bài toán, nếu các em càng nắm được nhiều cách tóm tắt thì các em sẽ càng giải toán giỏi. Tuy nhiên với khả năng của học sinh lớp 3 chúng ta chỉ nên hướng dẫn cho các em tóm tắt bằng lời văn hoặc bằng sơ đồ đoạn thẳng. Khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng lời, tôi tập cho các em có thói quen viết các giá trị của một đại lượng thẳng cột với nhau, câu hỏi của bài toán nên đưa về dòng cuối. Để làm được điều này tôi kiên trì tập luyện cho các em qua từng tiết học. Thời gian đầu học sinh chưa quen tôi đặt cho các em những câu hỏi gợi mở để các em biết cách tóm tắt. Sau khi đã thành thạo, các em đã tự tóm tắt được bài toán. Ví dụ: Bài 2 (SGK/Trang 128) Có 28kg gạo đựng đều trong 7 bao. Hỏi 5 bao đó có bao nhiêu kg gạo? 7 bao: 28 kg gạo 5 bao: kg gạo? Khi hướng dẫn học sinh tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, cần hướng dẫn các em điểm bắt đầu của các đoạn thẳng phải thẳng cột với nhau mới dễ so sánh các dữ kiện trong bài. Ngoài ra cần chú ý đến tính chính xác của sơ đồ đoạn thẳng trong khi tóm tắt mỗi bài toán sao cho các đoạn thẳng biểu thị trong một bài toán phải có sự tương xứng phù hợp. Chẳng hạn: Đoạn thẳng biểu thị cho 9 cái kẹo không thể bằng một nửa của đoạn thẳng biểu thị cho 12 cái kẹo. Khi tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng, tôi giúp học sinh phân biệt rõ: Với những bài toán có nội dung “nhiều hơn” hoặc “ít hơn” một số đơn vị thì ta biểu thị các giá trị trong bài bằng các đoạn thẳng dài hơn hoặc ngắn hơn. Ví dụ: Bài 1: (SGK/Trang 50) Anh có 15 tấm bưu ảnh, em có ít hơn anh 7 tấm bưu ảnh. Hỏi cả hai anh em có bao nhiêu tấm bưu ảnh? Tóm tắt: 15 tấm bưu ảnh Anh: 7 tấm ? tấm bưu ảnh Em: 11 Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính cần kiểm tra đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không?... Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? Qua quá trình quan sát học sinh giải toán, tôi thấy rằng học sinh thường coi bài toán đã giải xong khi tính ra đáp số hay tìm được câu trả lời. Khi tôi hỏi: “Em có tin chắc kết quả là đúng không?” thì nhiều em lúng túng. Vì vậy việc kiểm tra, đánh giá kết quả là không thể thiếu khi giải toán và phải trở thành thói quen đối với học sinh. Cho nên khi dạy giải toán, chúng ta cần hướng dẫn các em thông qua các bước: - Đọc lại lời giải. - Kiểm tra các bước giải xem đã hợp lí yêu cầu của bài chưa, các câu văn diễn đạt trong lời giải đúng chưa. - Thử lại các kết quả vừa tính từ bước đầu tiên. - Thử lại kết quả đáp số xem đã phù hợp với yêu cầu của đề bài chưa. Đối với học sinh có năng khiếu, giáo viên có thể hướng các em nhìn lại toàn bộ bài giải, tập phân tích cách giải, động viên các em tìm các cách giải khác, tạo điều kiện phát triển tư duy linh hoạt, sáng tạo, suy nghĩ độc lập của học sinh. 4.2. Hướng dẫn các em nắm vững các dạng toán. Đối với toán có lời văn ở lớp 3, chủ yếu là các bài toán liên quan đến rút về đơn vị và các bài toán có hai phép tính, thực chất việc giải các bài toán hợp cũng chính là giải quyết các bài toán đơn. Mặt khác các dạng toán đó đều được học ở các lớp trước. Vì vậy, trước tiên cần giúp các em nắm vững và giải tốt các bài toán đơn. Sau khi nắm vững rồi thì sẽ áp dụng các bài toán đơn để giải các bài toán hợp. Cụ thể như sau: 4.2.1. Các dạng toán đơn: 4.2.1.1. Các bài toán tìm "tích”. 13 4.2.1.6. Bài toán: "Giảm một số đi nhiều lần”. * Ví dụ: Bài 2b (trang 37/SGK Toán 3) Một công việc làm bằng tay hết 30 giờ, nếu làm bằng máy thì thời gian giảm 5 lần. Hỏi làm công việc đó bằng máy hết bao nhiêu giờ? - HS cần ghi nhớ giảm số lần ta làm tính chia. 4.2.1.7. Bài toán: "So sánh hai số gấp, kém nhau mấy lần”. Ví dụ: Anh có 10 que tính. Em có 5 que tính. Hỏi số que của anh gấp mấy lần số que tính của em? 4.2.1.8. Các bài toán có nội dung hình học Yêu cầu học sinh phải hiểu và thuộc công thức tính chu vi, diện tích hình chữ nhật và hình vuông. Chú ý độ dài các cạnh của hình chữ nhật, nếu chưa cùng đơn vị đo thì phải đổi về cùng đơn vị đo rồi mới tính. 4.2.1.9. Các bài toán về đại lượng và đo đại lượng - Nắm được bảng đơn vị đo độ dài, thuộc tên và viết đúng các đơn vị đo, biết đổi số đo độ dài. - Nắm được bảng đơn vị đo khối lượng, thuộc tên và viết đúng các đơn vị đo, biết đổi số đo khối lượng. - Nắm được các đơn vị do thời gian, biết đổi số đo thời gian. - Biết xem lịch, ngày, tháng, năm; tính ngày, tháng, năm, giờ, phút. - Biết các loại tiền Việt Nam, biết tính giá trị tiền Việt Nam. * Một số lưu ý khi dạy toán đơn. Trên đây là các dạng toán đơn. Mặc dù chỉ là những bài toán đơn giản nhưng trong thưc tế các em vẫn nhầm. Vậy muốn giải đúng tôi rút ra một số điều cần lưu ý khi giải toán đơn như sau: - Yêu cầu các em thực hiện theo 5 bước giải toán. Trong thực tế có thể lược bớt đi một số bước. Thậm chí, khi học sinh đã quen thì có thể cho các em tự đọc đề và tự giải, không cần bước nào cả. - Trong một bài toán, câu hỏi có một chức năng quan trọng trong việc lựa chọn câu lời giải và phép tính thích hợp. Với cùng các dữ kiện như nhau có thể đặt các câu hỏi khác nhau do đó việc lựa chọn phép tính cũng khác 15
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_3_g.doc