SKKN Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 3 dân tộc thiểu số
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 3 dân tộc thiểu số", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 3 dân tộc thiểu số
Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu I. PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Cùng với các môn học khác (Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử, Địa lí, Đạo đức,...) môn Toán được dạy trong trường Tiểu học đã đóng góp một phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách của học sinh. Môn Toán được dạy ở trường Tiểu học là môn học thống nhất, không chia thành phân môn. Nội dung của nó bao gồm các mạch kiến thức là: Số học, Đại lượng và đo đại lương, Các yếu tố hình học, Yếu tố thống kê, Giải toán có lời văn. Trong chương trình dạy học toán các mạch kiến thức này được sắp xếp xen kẽ nhau, quan hệ gắn bó với nhau làm cho môn Toán trở thành môn học có tính tích hợp cao, phù hợp với nhận thức của học sinh Tiểu học. Các bài toán có lời văn dành cho học sinh Tiểu học trong chương trình là những vấn để trong thực tế cuộc sống hết sức phong phú và có cấu trúc đa dạng khác nhau của cùng một phép tính (cộng, trừ, nhân, chia) đến những dạng toán kết hợp của hai hay nhiều phép tính. Vì vậy, giải các bài toán có lời văn là dịp để học sinh vận dụng một cách tổng hợp các tri thức và kĩ năng giải toán với kiến thức cuộc sống. Việc dạy giải toán là một trong những vấn đề được coi trọng vì nó được xem là hoạt động nhằm mục đích: Củng cố, vận dụng những kiến thức tổng hợp thành kĩ năng, kĩ xảo và phát triển tư duy cho học sinh. Các em được làm quen với giải toán có lời văn ngay từ lớp 1 nhưng mới ở dạng toán đơn. Trong chương trình giải toán ở lớp 3 các em được học giải bài toán bằng hai phép tính bao gồm nhiều kiến thức tổng hợp. Đây là nền tảng cho các em giải các bài toán yêu cầu cao hơn có từ hai lời giải trở lên. Để làm tốt loại toán này đòi hỏi các em khả năng tư duy “Phân tích – tổng hợp”. Nếu học sinh không hiểu được đề bài sẽ không giải được bài toán. Trong thực tế lớp tôi chủ nhiệm vẫn còn nhiều học sinh lúng túng trong quá trình giải toán có lời văn. Tôi nhận thấy trong các kiến thức Toán ở chương trình thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là khó nhất với học sinh dân tộc thiểu số. Bởi vì, đối tượng học sinh dân tộc thiểu số vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế nên khi giải toán có lời văn thường rất chậm so với các dạng bài tập khác. Với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lí giải tại sao các em lại có được phép tính như vậy? Các em thật sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt chưa rõ ràng, Là giáo viên giảng dạy ở lớp 3, tôi thấy năng lực giải toán có lời văn của học sinh dân tộc thiểu số còn bị hạn chế bởi một số nguyên nhân chính như sau: Do các em ngại và chưa có thói quen đọc kĩ đề bài, phân tích các yếu tố ngôn ngữ để nắm được nội dung bài toán. GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 1 Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu Đọc tài liệu: Bồi dưỡng thường xuyên cho giáo viên Tiểu học chu kì III (2003 – 2007); tài liệu bồi dưỡng giáo viên dạy các môn học lớp 3; sách giáo viên; sách giáo khoa Toán. Phương pháp tổng hợp. b) Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn Phương pháp trực quan. Phương pháp thực hành luyện tập. Phương pháp gợi mở - vấn đáp. Phương pháp điều tra, thống kê. Phương pháp giảng giải - minh họa. Phương pháp sơ đồ đoạn thẳng. Phương pháp quan sát (thăm lớp, dự giờ). Phương pháp thử nghiệm (tổ chức hội vui học tập). Phương pháp mô hình hóa kết quả thu được (biểu bảng). II. PHẦN NỘI DUNG 1. Cơ sở lý luận Căn cứ vào chương trình Giáo dục phổ thông cấp Tiểu học (Quyết định số 16/2006/QĐ – BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Căn cứ vào chương trình chuẩn hiện nay do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và chuẩn kiến thức kĩ năng cần đạt đối với môn Toán lớp 3. Căn cứ vào nhiệm vụ năm học 2016 – 2017, thực hiện chỉ đạo của PGD&ĐT Krông Ana. Trong chương trình Giáo dục Tiểu học hiện nay, môn Toán cùng với các môn học khác trong trường Tiểu học có những vai trò góp phần quan trọng đào tạo nên những con người phát triển toàn diện. Toán học là môn khoa học tự nhiên có tính lôgic và tính chính xác cao, nó là chìa khóa mở ra sự phát triển của các bộ môn khoa học khác. Trong đó mạch kiến thức giải toán có lời văn là dạng toán dùng ngôn ngữ đưa ra các dữ kiện và những yếu tố cần tìm trong một văn cảnh, ta vẫn hay quen gọi là bài toán đố. Bài toán có lời văn bao gồm nhiều loại toán khác nhau: toán đơn, toán hợp, toán điển hình. Ngay từ lớp 1 các em đã làm quen với cách giải bài toán có lời văn, tuy nhiên ở dạng rất đơn giản. Đó là những bài toán đơn về “thêm”, “bớt”, “nhiều hơn”, “ít hơn”. Lên lớp 3 các em bắt đầu làm quen và giải các bài toán hợp. Cho nên giải toán ở lớp 3 là nền tảng quan trong cho các em học giải toán ở lớp 4, 5. Giải toán có lời văn là một phần quan trọng trong chương trình giảng dạy môn Toán ở bậc Tiểu học. Nội dung của việc giải toán gắn chặt một cách hữu cơ với nội dung của số học, các đại lượng cơ bản và các yếu tố hình học có trong chương trình Toán 3. Vì vậy, việc giải toán có lời văn có một vị trí quan trọng thể hiện ở các điểm sau: GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 3 Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu cha mẹ học sinh không hoặc chưa quan tâm đúng mức đến việc học tập của con em mình, chưa tạo điều kiện tốt để các em đến lớp cũng như nhắc nhở các em học bài, đọc bài ở nhà. Một số học sinh chưa thực sự hiếu học, hay quên đồ dùng học tập, chưa chuẩn bị bài đầy đủ trước khi đến lớp. Nhất là với môn Toán, số lượng học sinh khó khăn còn nhiều, chất lượng học tập chưa cao, có những học sinh không hiểu được đề bài toán dẫn đến giải bài toán sai, chưa biết tập trung vào những dữ kiện trọng tâm của đề toán, không chịu phân tích đề toán khi đọc đề,. Các em học sinh khó khăn vừa nhận biết mặt chữ vừa đánh vần để tìm hiểu bài toán, chưa xác định được yêu cầu và chưa nắm được cách giải bài toán có lời văn. Một số học sinh chưa theo kịp yêu cầu kiến thức, kĩ năng của môn học. Các em chưa hiểu hết tầm quan trọng của việc giải các bài toán, mà các em chỉ chú ý đến việc làm cho xong bài tập. Chưa nắm được nội dung của bài toán, chưa tích cực, chủ động phân tích, tìm hiểu đề bài, tóm tắt bài toán, Vì kĩ năng đọc thành thạo của các em chưa cao nên các em đọc được đề toán và hiểu đề còn thụ động, chậm, dẫn đến kĩ năng giải toán có lời văn của học sinh dân tộc thiểu số còn yếu. Do đó, giáo viên khó khăn, vất vả và mất nhiều thời gian để nghiên cứu phương pháp dạy học cũng như biện pháp rèn cho học sinh. Đồ dùng dạy học môn Toán còn hạn chế. Giáo viên mất nhiều thời gian đầu tư vào đồ dùng dạy học tự làm. Khi các em học giải các bài toán có lời văn hay gặp nhiều lúng túng, có khi bị “bế tắc” không tìm ra cách giải. Các em chỉ quen giải những bài toán đơn và bài toán mà dữ kiện cho biết cụ thể. Khi gặp bài toán mà dữ kiện bị che dấu bởi một yếu tố ngôn ngữ nào đó là các em gặp nhiều khó khăn. Khả năng suy luận của các em còn nhiều hạn chế. Các em hay lo lắng khi gặp bài toán có lời văn với quan điểm bài toán có lời văn là bài toán khó. Cụ thể về học sinh giải toán có lời văn chưa tốt là do: Các em hấp tấp, vội vàng, không đọc kĩ đề bài chưa nắm vững các dữ kiện bài cho, dạng bài đã làm. Học sinh chưa biết cách phân tích đề, tóm tắt bài toán dẫn đến chưa biết cách giải bài toán. Học sinh biết cách giải nhưng kĩ năng tính toán kém dẫn đến kết quả sai. Các em chưa hiểu rõ bản chất bài toán dẫn đến lúng túng khi đặt câu lời giải cho phép tính và đặt lời giải sai. Có học sinh không nắm vững các dạng toán dẫn đến sợ học toán có lời văn với quan niệm là khó. Một số em còn hạn chế về cách diễn đạt, hiểu ý nhưng không diễn đạt được. Dạy học giải toán có lời văn ở lớp 3 nhằm kế thừa giải toán có lời văn ở lớp 1, 2 mở rộng, phát triển nội dung giải toán phù hợp với sự phát triển nhận GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 5 Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu Mục đích nhằm nâng cao chất lượng học toán cho học sinh nói chung và rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh tộc dộc thiểu số lớp 3 nói riêng giúp các em nắm chức và giải tốt bài toán có lời văn, giúp giáo viên cùng học sinh đáp ứng được mục tiêu giảng dạy và học tập hiện nay, tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh học tốt môn toán ở các lớp trên. 3.2. Nội dung và cách thức thực hiện giải pháp Biện pháp 1: Xây dựng nề nếp lớp học Song song với việc điều tra, phân loại đối tượng học sinh, lập kế hoạch phấn đấu bồi dưỡng cho các em, tôi tiến hành xây dựng nề nếp học tập cho học sinh. Sắp xếp chỗ ngồi cho hợp lí, phù hợp với từng em. Hướng dẫn học sinh cách học nhóm có hiệu quả, phân công các nhóm kèm cặp lẫn nhau, học sinh năng khiếu giúp học sinh khó khăn, tạo thói quen trao đổi học tập cùng nhau. Xây dựng quy ước giữa cô và trò, yêu cầu học sinh thực hiện nghiêm túc (giờ nào việc ấy). Học sinh tự giác nghe giảng, học bài và làm bài đầy đủ. Biện pháp 2: Quy trình giải toán có lời văn Nghiên cứu kĩ đầu bài: Trước hết cần đọc cẩn thận đề toán, suy nghĩ về ý nghĩa bài toán, nội dung bài toán, đặc biệt chú ý đến câu hỏi bài toán. Không nên vội tính toán khi chưa đọc kĩ đề toán. Thiết lập mối quan hệ giữa các số đã cho và diễn đạt nội dung bài toán bằng ngôn ngữ, tóm tắt điều kiện bài toán hoặc minh họa bằng sơ đồ hình vẽ. Lập kế hoạch giải toán: học sinh phải suy nghĩ xem để trả lời câu hỏi của bài toán phải thực hiện phép tính gì? Suy nghĩ xem từ số đã cho và điều kiện của bài toán có thể biết gì? Có thể làm tính gì? Phép tính đó có thể giúp trả lời câu hỏi của bài toán không? Trên các cơ sở đó, suy nghĩ để thiết lập trình tự giải toán. Thực hiện phép tính theo trình tự đã thiết lập để tìm đáp số. Mỗi khi thực hiện phép tính cần kiểm tra đã tính đúng chưa? Phép tính được thực hiện có dựa trên cơ sở đúng đắn không?... Giải xong bài toán, khi cần thiết, cần thử xem đáp số tìm được có trả lời đúng câu hỏi của bài toán, có phù hợp với các điều kiện của bài toán không? Biện pháp 3: Hướng dẫn các bước giải toán Bước 1: Tìm hiểu nội dung bài toán Cần cho học sinh đọc kĩ đề toán giúp học sinh hiểu chắc chắn một số từ khoá quan trọng nói lên những tình huống toán học bị che lấp dưới cái vỏ ngôn 1 1 từ thông thường như: “gấp đôi”, “ , ”, “tất cả” 3 4 Nếu trong bài toán có từ nào mà học sinh chưa hiểu rõ thì tôi hướng dẫn cho học sinh hiểu được ý nghĩa và nội dung của từ đó ở trong bài toán đang làm, GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 7 Một số biện pháp giải toán có lời văn cho học sinh lớp 3 dân tộc thiểu số ở Trường TH Võ Thị Sáu - Cách 1: (Đối với bài toán đơn) Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu “hỏi” và thay từ “mấy” hay “bao nhiêu” bằng từ “số” rồi thêm từ “là” để có câu lời giải. Ví dụ: May 6 bộ quần áo hết 18m vải. Hỏi may mỗi bộ quần áo hết mấy mét vải? Các em tìm được câu lời giải “May mỗi bộ quần áo hết số mét vải là:” - Cách 2: (Đối với bài toán hợp) Lời giải thứ nhất dựa vào cái cần tìm đầu tiên trong bài toán, tìm cái gì trả lời cái đó. Lời giải thứ hai dựa vào câu hỏi trong bài toán. Ví du: Thùng thứ nhất đựng 18 lít dầu, thùng thứ hai đựng nhiều hơn thùng thứ nhất 6 lít dầu. Hỏi cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu? + Muốn biết cả hai thùng đựng được bao nhiêu lít dầu trước tiên em phải tìm gì? (Tìm thùng thứ hai đựng được bao nhiêu lít dầu) Vậy: Cái cần tìm đầu tiên là số lít dầu đựng trong thùng thứ hai nên câu lời giải là: “Số lít dầu đựng trong thùng thứ hai là:” hoặc “Thùng thứ hai đựng được số lít dầu là:” Tóm lại: Tuỳ từng đối tượng, từng trình độ học sinh mà hướng dẫn các em cách lựa chọn, đặt câu lời giải cho phù hợp. Trong một bài toán, học sinh có thể có nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Song trong khi giảng dạy, ở mỗi một dạng bài cụ thể tôi cho các em suy nghĩ, thảo luận theo bàn, nhóm để tìm ra các câu lời giải đúng và hay nhất phù hợp với câu hỏi của bài toán đó. Tuy nhiên cần hướng dẫn học sinh lựa chọn cách giải (ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với các em) và phù hợp với đối tượng học sinh của lớp mình. Bước 3: Trình bày bài giải Như chúng ta đã biết, các dạng toán có lời văn, học sinh đã phải tự viết câu lời giải, phép tính, đáp số, thậm chí cả tóm tắt nữa. Chính vì vậy, việc hướng dẫn học sinh trình bày bài giải sao cho khoa học, đẹp mắt cũng là yêu cầu lớn trong quá trình dạy học. Muốn thực hiện yêu cầu này trước tiên người dạy cần tuân thủ cách trình bày bài giải theo hướng dẫn, quy định. Đầu tiên là tên bài (Viết sát lề bên trái có gạch chân), tiếp đó ghi bài giải. Từ: “Bài giải” ghi ở giữa trang vở (có gạch chân), câu lời giải ghi cách ô lỗi khoảng 1 -> 2 ô vuông (tùy câu lời giải ngắn hoặc dài), chữ ở đầu câu viết hoa, ở cuối câu có dấu hai chấm (:), phép tính viết lùi vào so với lời giải khoảng 2 -> 3 ô vuông, cuối phép tính là đơn vị tính được viết trong dấu ngoặc đơn. Phần đáp số ghi lệch sang phần vở bên phải và dấu hai chấm rồi mới viết kết quả và đơn vị tính (không phải viết dấu ngoặc đơn nữa). Biện pháp 4: Hướng dẫn giải các dạng toán cơ bản Để dạy học sinh cách giải toán thì trước tiên tôi lựa chọn phương pháp giải toán phù hợp với từng dạng toán khác nhau. GV: Phạm Thị Phượng – Trường Tiểu học Võ Thị Sáu 9
File đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_giai_toan_co_loi_van_cho_hoc_sinh_lop.doc